|
Kiến Tường, thời tụi mình còn nhỏ
* hồi ức
Chân dung tự họa nguyễnthịvânhồng, thời học
THKT.
Tỉnh Kiến Tường, còn gọi là thị trấn Mộc Hóa,
nằm cách Saigon khoảng trăm cây số, và nằm cách biên giới Cao Miên
khoảng mười cây số. Đó là một tỉnh heo hút, nghèo, buồn ngắt.
Ông ngoại tôi có thời làm việc cho chính phủ, sau bất mãn gì đó, nên
chọn lối “độc thiện kỳ thân” cùng bà ngoại dọn nguyên gian hàng vải
mang tên Thọ Lộc ở chợ Tân Định Saigon xuống mua bán tại chợ Kiến
Tường. Mặc dù tôi đang học nội trú tại trường Thiên Phước, vì phải
theo ngoại nên chuyển về ghi tên học tại trường Thánh Joan ngay tỉnh
lỵ. Trường có 2 dãy lớp hình chữ L và một cô nhi viện do các soeur
chăm sóc và dạy chương trình Việt. Từ cổng chính bước vào trường,
ngay bên tay trái là nhà các soeur, kế đó là dãy lớp mẫu giáo và lớp
Năm. Ở ngay đầu dãy kia (từ lớp Tư tới lớp Nhất) có một hang đá khá
lớn và đẹp, đâu lưng vào Ty Công chánh, bên hông là một sân cỏ rộng
trước tòa hành chánh tỉnh, còn nhìn xéo qua bên kia góc đường là
ngôi biệt thự kiểu Pháp sơn màu trứng sáo dùng làm tòa Tỉnh trưởng
với những tàn cây phủ um bóng mát chung quanh. Ngước mắt đối diện
trường, cách một con đường, là ngọn tháp chuông thường rung boong
beng trên nóc nhà thờ cũ kỹ, có những bậc thềm tam cấp nơi lũ học
trò nhỏ chúng tôi thường qua đó chạy đuổi nhau với trò chơi “cá sấu
lên bờ”, gần bên là nhà xứ của vị linh mục già khả kính mà các giáo
dân thương yêu gọi bằng “ông cố”.
Đang theo học trường này một niên khóa, năm lên lớp Nhất, bà ngoại
nhờ anh Tâm huynh trưởng Gia đình Phật tử chùa Tường Vân xin cho qua
học trường công. Không biết có phải vì đang học chương trình Pháp,
chuyển qua chương trình Việt một cách đột ngột, rồi từ trường tư
sang qua trường công hay không mà năm lớp Nhất tôi học cà ngơ cà
ngất đến nỗi cô giáo dạy tôi năm đó phải phán “con Vân Hồng mà đậu
đệ Thất là tui bỏ trường này không dạy”, nghe thật dễ sợ. Thật ra,
cô Lệ Thu (*) mắng không oan chút nào, kỳ thi năm đó nếu không có
anh chàng Lê Văn Đành ra tay nghĩa hiệp cho “cọp dê” suốt mấy ngày
thi thì chắc chắn tôi rớt là cái chắc.
Được bước chân vào lớp Đệ thất của trường Trung học Kiến Tường, bỗng
nhiên tôi học khá ra, nhất là môn Việt văn, tôi lại học rất giỏi và
thường chiếm hạng nhất từ thời thầy Hòa (người miền Bắc, dạy đệ
Thất, niên khóa1965 ), và chứng tỏ khả năng nói trước công chúng
bằng những cử chỉ và lý luận trong giờ trần thuyết (có lẽ nhờ vậy mà
tôi từng nuôi ước mơ trở thành một luật sư). Những môn khác tôi học
trên trung bình, nhưng sợ nhất vẫn là các môn Toán như Đại số hay
Hình học, hôm nào có các môn này thì y như rằng tôi cứ lâm râm cầu
nguyện cho thầy Đoàn Văn Nhiêu… bị bịnh!
Lên đệ Lục, ngoài môn Việt văn, tôi còn giỏi nhất môn Anh văn, ngoài
Văn phạm và thuộc Ngữ vựng, tôi phát âm tiếng Anh rất chuẩn mà Mr.
Webb thường khen, còn có thầy Cao Thành Phát cũng rất tự hào về cô
học trò của mình. Sau này, nghe Trần Ngọc Bách kể lại, thầy Lưu Văn
Nhu có nhắc với Bách là tôi có khiếu làm thơ, nhưng tôi giỏi nhất là
môn Anh văn và thầy còn kể lại một kỷ niệm có lần tôi không thuộc
bài Vật lý, thầy kêu tôi đọc thơ, nhìn thấy nét mặt tôi sững sờ,
nước mắt chực rơi ra, thầy tội nghiệp kêu về chỗ và cho tôi… 10
điểm! Câu chuyện sau 43 năm, thầy còn nhớ từng chi tiết.
Tôi cũng nhớ từ năm đệ Lục, lớp tôi con gái học giỏi hơn con trai,
ngoài Đồng Ngọc Lan, Nguyễn Thị Chiến, lớp tôi lẫy lừng nhờ “hiện
tượng” Nguyễn Thị Rỡ, Rỡ học thật giỏi, viết chữ thật đẹp, môn nào
Rỡ cũng đứng đầu và năm nào Rỡ cũng được lãnh phần thưởng xuất sắc,
vì thế sau này Rỡ được trường giữ lại dạy cho trường.
Thời gian năm 1967, Mộc Hóa vẫn còn vắng, trống trải lắm, mảnh đất
đỏ phù sa do xáng hút từ lòng sông thổi lên rộng mênh mông. Lúc đó,
nếu chúng ta đứng từ cửa nhà lồng chợ, ánh mắt chúng ta có thể nhìn
tuốt vô tận Khu Thành Công, nơi có những dãy nhà được chính quyền
cất lên cho vợ con binh sĩ ở. Chúng ta cũng còn có thể thấy những
cánh quạt chấp chới hay những đám bụi đỏ khi những chiếc máy bay
quân sự lên xuống trong phi trường, nằm ở mé bên kia Khu Thành Công,
bên cạnh Núi Đất. Năm này khu bến xe mọc thêm hai dãy phố lầu khang
trang, đẹp, tuy vô tình làm che khuất khu nhà cao cẳng xây theo kiểu
song lập – mà người ta gọi khu công chức thượng lưu, tôi còn nhớ một
dãy có tiệm may Hồng Huệ, một dãy có nhà của Phan Thị Nhị.
Dọc theo chợ có hai dãy phố trệt chạy song song với nhau. Khu đầu
căn nơi góc đường quẹo ra công viên là tiệm Rạng Đông bán sách, kế
đó hay cách vài căn là tiệm thuốc tây Nguyễn Huệ có chị Thanh Nguyên
con chủ tiệm hát bản Bésame Mucho thật hay… Đi xuống phía dưới một
chút gần tiệm thuốc tây Bình Dân có tiệm thuốc Bắc là nhà của Lâm
Thị Huệ, con nhỏ có cái miệng móm này lanh ơi là lanh, thường chúng
tôi gọi nó là Huệ Lâm, để phân biệt với Võ Bích Huệ, em gái của anh
Điền, và anh Điền con bác Tư Hưng, anh còn là anh rể của Nguyễn Thị
Chiến. Dãy phố bên này ngoài tiệm Nhựt Quang, tôi nhớ lõm bõm có
tiệm giặt ủi và tiệm chụp hình Nguyệt Châu, chị Châu cũng học cùng
lớp với tôi và hay đi chung với chị Lê Thị Bé và chị Lê Mỹ Lệ. Ký ức
tiếp tục dẫn tôi để nhớ thêm một người đẹp nổi tiếng có làn da trắng
mịn như sứ là Tạ Thị Tuyết Mai, con gái tiệm sách Tinh Hoa nằm ngay
góc sau chợ, ngó mặt ra hướng chợ cá.
Đến năm tôi học lớp đệ Ngũ thì thầy Trần Ba dạy Toán lên làm hiệu
trưởng (nhờ vậy con trai trường tôi bỗng dễ thương ra) và năm này
thầy Lưu Văn Nhu cưới cô Triệu Cẩm Nhung, một giáo sư đẹp, quí phái
với mái tóc uốn cong bồng lên thật đặc biệt. Bỗng dưng năm nay trong
trường cặp đôi tôi với Nguyễn Ngọc Minh học chung với anh Sơn trên
tôi hai lớp, có lẽ, thấy mỗi buổi sáng tôi bên khu Tòa Hành chánh
lững thững băng qua thì vừa lúc Minh nhà ở khu Công chánh cũng vừa
bước ra (?), chúng tôi thường gặp nhau ngay ngã ba mà chưa hề nói
câu nào rồi nhập vào đám học sinh đang kéo nhau tới trường. Sau này
về lại Saigon, chúng tôi mới thường gặp nhau, thân nhau, lúc này nhà
Minh ở trong khu Chí Hòa, mấy lần sinh nhật tôi, Minh có đến vẽ
tranh, trang trí…Tôi biết Minh có chút cảm tình, nhưng với tôi -
Minh mãi mãi là một người bạn dễ thương.
Những năm sống tại Mộc Hóa, tôi thân nhất với Đỗ Thị Kim Loan, nhà
là tiệm giặt ủi Phước Tài, Loan có một người chị tên Đỗ Thị Việt
Tiến khá đẹp, dạn dĩ và sống khá bạo, mỗi lần chị Tiến đi xa về, đám
con gái chúng tôi đang tuổi dậy thì, vừa lơ ngơ vừa mơ mộng, vừa tò
mò rất thích thú nghe chị Tiến kể chuyện tình.
Nếu tới mùa dế, tôi hay theo phụ chị Thủy nhà kế bên, xách thùng ra
công viên, rượt chụp bầy dế mập ú ụ bay đầy những ngọn đèn thật vui,
rồi về tẩn mẩn nhét từng hột đậu phọng vô bụng mấy con dế mà mẹ của
chị Thủy đã rút ruột sẵn rồi lăn bột chiên ăn nóng, hoặc đêm nào
không kinh hoảng chạy xuống hầm trốn pháo kích thì đêm đêm mọi người
thường nghe tiếng đại bác bắn xa xa như ru giấc ngủ thật buồn, cho
nên hễ mỗi khi ty Thông tin (do ông Điều ảo thuật gia làm trưởng ty)
tổ chức chiếu phim là tôi náo nức xin bà ngoại dắt đi ra ngồi sắp
lớp trước cửa nhà lồng chợ chờ coi những phim cao bồi thật gay cấn.
Có khi gánh cải lương về hát, chị Thủy qua xin, bà ngoại nhất định
không cho vì sợ lựu đạn hay gì đó sao tôi chạy kịp, còn ông ngoại
thấy tôi buồn nên bày cách, chờ bà ngoại đi chùa, vừa thấy ngoại
khuất dạng chỗ ty Hiến binh là tôi với chị Thủy hớn hở nắm tay nhau
tới Hội trường, sau khi vãn hát, có ông ngoại nằm chờ sẵn trên divan
chỗ phòng khách sát cửa, cứ gõ nhẹ, ông ngoại mở. Khuya đó theo y
bài bản lần trước, tôi về, rồi gõ nhẹ… cửa bật mở, hết hồn thấy bà
ngoại đứng lừng lững đó với cây roi mây trên tay, thế là tôi riu ríu
nằm dài ngay trước hàng ba cho bà ngoại vừa nhịp roi vừa hỏi tội…
may, có ông phó Hiếu đi trực về, thấy vậy tấp vô xin, từ đó tôi
“tởn” không bao giờ tái phạm.
Ông ngoại mất. Tôi bỏ Kiến Tường về Saigon.
. thụyvi
(Hầm Nắng, Michigan, ngày hạ nêu Tết Canh Dần 2010)
(*) Năm tôi thi Tú tài 2 tại trường Pétrus Ký, tôi có gặp lại cô Lệ
Thu gác phòng thi, tôi bước tới khoanh tay chào và xưng tên, cô la
hoảng lên “Trời! Con Vân Hồng… lớn dữ!” Kỳ này ,cô không rầy mà còn
bao che cho tôi… nộp bài trễ. Nghe cô nói cô dạy lớp đêm ở Gia Long.
|
|