|
Câu đối
Nguồn gốc
Câu đối có nguồn gốc từ người Trung
Hoa.
Họ gọi câu đối là đối liên (對聯)
nhưng tên gọi xưa của nó là đào phù (桃符).
Câu đối được xem là tinh
hoa của văn hóa chữ
Hán, người Trung Hoa quan niệm: "nếu thơ văn là tinh hoa
của chữ nghĩa thì câu đối là tinh hoa của tinh hoa"
Đối liên có
lịch sử ra đời cách đây khoảng 3.000 năm, nhưng theo Tống sử
Thục thế gia (宋史蜀世家),
câu đối đầu tiên được ghi lại do chính chúa nhà
Hậu Thục (934-965)
là Mạnh Sưởng viết
trên tấm gỗ đào vào năm 959.
Nguyên bản:
-
新年納餘慶
-
嘉節號長春
|
-
Phiên âm:
-
Tân niên nạp dư khánh
-
Gia tiết hiệu trường xuân
|
-
Dịch thơ:
-
Năm mới thừa chuyện vui
-
Tiết đẹp xuân còn mãi]
|
Những nguyên tắc của câu đối
Khi viết câu đối, nếu chọn được
câu chữ tuân theo nguyên tắc sau thì đôi câu đối được gọi là chỉnh
đối hay đối cân.
Đối ý và đối chữ
-
- Về thanh: thanh
bằng đối với thanh
trắc và ngược lại.
-
-
Về loại: thực tự (hay chữ nặng như: trời, đất, cây...)
phải đối với thực tự; hư tự (chữ nhẹ như: thì, mà,
vậy, ru...) phải đối với hư tự; danh
từ phải đối với danh từ, động
từ phải đối với động từ; nếu vế đối này có đặt chữ
Nho thì vế kia cũng phải đặt chữ Nho...
Vế câu đối
Một đôi câu đối gồm hai câu đi
song nhau, mỗi câu là một vế. Nếu câu ấy từ một người sáng tác
gọi là vế trên và vế dưới. Nếu một người nghĩ ra
một vế để người khác làm vế kia thì gọi là vế ravà vế
đối.
Khi một câu đối do một người làm
ra cả hai vế, thì chữ cuối, vế trên, câu bên phải (khi treo) là
thanh trắc; còn chữ cuối, vế dưới, câu bên trái là thanh bằng.
Số chữ và các thể câu đối
Số chữ trong câu đối không nhất
định, theo số chữ và cách đặt câu có thể chia câu đối ra làm các
thể sau:
-
Câu tiểu đối: là những câu 4 chữ
trở xuống.
-
Câu đối thơ: là những câu làm theo lối đặt câu của thể thơ
ngũ ngôn hoặc thất
ngôn.
-
Câu đối phú: là những câu làm theo các lối đặt câu của thể phú,
gồm có:
-
- Lối câu song quan: là
những câu 6 đến 9 chữ, đặt thành một đoạn liền
-
-
Lối câu cách cú: là những câu mà mỗi vế chia làm 2 đoạn,
một đoạn ngắn, một đoạn dài
-
-
Lối câu gối hạc hay hạc tất: là những câu mỗi vế
có 3 đoạn trở lên.
Luật bằng trắc
-
- Vế phải: trắc-trắc-trắc
-
-
Vế trái: bằng-bằng-bằng
-
-
Câu đối phú: Chữ cuối mỗi vế và chữ cuối mỗi đoạn phải bằng đối
với trắc hoặc trắc đối với bằng. Khi mỗi vế
đối có từ 2 đoạn trở lên thì nếu chữ cuối vế là trắc, các
chữ cuối các đoạn trên phải là bằng và ngược lại. Nếu
đoạn đầu hoặc đoạn dưới có đúng 7 chữ thì đoạn ấy thường theo
luật thơ thất ngôn.
Phân loại câu đối
Câu đối Trung Hoa
Người Trung
Hoa phân loại câu đối theo cách dùng và đặc điểm nghệ thuật:
Phân loại theo cách dùng
-
Xuân liên (春聯): Câu đối
xuân, chuyên dùng vào dịp Tết,
gắn ở cửa.
-
Doanh liên (楹聯): Câu đối treo ở cột trụ, dùng trong nhà,
cơ quan, cung điện của vua và những nơi cổ kính.
-
Hạ liên (賀聯): Câu đối chúc mừng, thường được dùng để chúc
thọ, chúc sinh
nhật, hôn giá, thăng quan tiến chức, có con, khai nghiệp
v.v.
-
Vãn liên (挽聯): Câu đối than vãn, dùng trong lúc ai điệu
tử vong.
-
Tặng liên (贈聯): Dùng để tán thán, đề cao hoặc khuyến
khích người khác.
-
Trung đường liên (中堂聯): Câu đối dùng để treo ở những
khách đường lớn, chỗ nhiều người lưu ý, và được phối hợp với bút
hoạch (thư pháp).]
Phân loại theo đặc điểm nghệ thuật
-
Điệp tự liên (疊字聯): Một chữ
xuất hiện liên tục.
-
Phức tự liên (複字聯): Hai vế có chữ giống nhau nhưng không
xuất hiện một cách trùng phức liên tục.
-
Đỉnh châm liên (頂針聯): Chữ nằm phần đuôi của câu đầu lại
là chữ đầu của câu sau.
-
Khảm tự liên (嵌字聯): Bao gồm số, phương vị, tiết
khí, niên
hiệu, họ người, nhân danh, địa danh, vật danh (ví như tên
thuốc) v.v.
-
Xích (sách) tự liên (拆字聯): Mỗi hợp thể tự bên trong câu
đối tách thành bao nhiêu chữ đơn thể, có người phân ra tinh tế
hơn nữa là mở chữ ra (xích tự 拆字), hợp chữ lại (hợp tự 合字), tách
chữ ra (tích tự 析字) v.v.
-
Âm vận liên (音韻聯): Bao gồm đồng âm dị tự, đồng tự dị
âm cùng với điệp vận.
-
Hài thú liên (諧趣聯): Hàm dung ý nghĩa khôi hài, ẩn kín.
-
Vô tình đối (無情對): Ý nghĩa trên dưới không tương quan một
mảy may nào, chỉ chỉnh những chữ, từ. Phần lớn Vô tình đối này
ít thấy ý vị, hoàn toàn có thể quy nhập vào Hài thú liên bên
trên.
-
Hồi văn liên (回文聯): Đọc xuôi (thuận độc 順讀) hay đọc ngược
(đảo độc 倒讀) ý tứ hoàn toàn như nhau.
Câu đối Việt Nam
Câu đối Việt Nam được Dương Quảng
Hàm phân loại theo ý nghĩa, gồm các loại sau:
● Câu đối mừng: làm để tặng người khác trong những dịp vui
mừng như: mừng thọ, mừng thi đỗ, mừng đám cưới, mừng nhà mới...
Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa khả phong giai tị ốc.
Sống ở làng, sang ở nước, mừng ông nay lại vểnh râu tôm
(Nguyễn Khuyến, viết mừng một
chánh tổng trước bị cách chức, sau được phục sự và làm nhà mới.)
● Câu đối phúng: làm để viếng người chết.
Nhà chỉn nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó
que, xắn váy quai cồng,
tất tưởi chân nam đá chân chiêu, ví tớ đỡ đần trong mọi việc
Bà đi đâu vợi mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành,
buông quần lá toạ,
gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm.
(Nguyễn Khuyến: câu đối khóc vợ)
● Câu đối Tết: làm để dán nhà, cửa, đền, chùa...về dịp Tết
Nguyên Đán.
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.
Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
(Nguyễn Công Trứ, câu đối làm vào dịp tết lúc còn hàn vi.)
Tết đến không tiền vui chi Tết / Xuân về kết gạo đón chi Xuân.
(Tác giả, câu đối làm vào dịp tết lúc còn hàn vi.)
● Câu đối thờ: là những
câu tán tụng công đức tổ tiên hoặc thần thánh làm để dán hoặc treo
những chỗ thờ.
Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ.
Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên.
(Dịch nghĩa: Năm có bốn mùa, mở đầu bằng mùa xuân. Người ta có trăm
tính nhưng tính hiếu thảo là cần trước hết)
hoặc:
Mở rộng phương Tiên, công tế thế cao bằng Thái lĩnh
Sống nhờ của Phật, ơn cứu người rộng tựa Cẩm Giang
(Câu đối thờ Tuệ Tĩnh ở đền Bia)
Tùng thanh, trúc thanh, chung khánh thanh, thanh thanh tự tại.
Sơn sắc, thủy sắc, yên hà sắc, sắc sắc giai không.
(Câu đối khắc ở chùa Diệu Đức, Huế).
● Câu đối tự thuật: là những câu kể ý chí, sự nghiệp của mình
và thường dán ở những chỗ ngồi chơi.
Chị em ơi! ba mươi sáu tuổi rồi, khắp đông, tây, nam, bắc bốn
phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác.
Trời đất nhẻ! gắng một phen này nữa, xếp cung, kiếm, cầm, thư vào
một gánh, làm cho nổi tiếng trượng phu kềnh
(Nguyễn Công Trứ, câu đối tự thuật)
● Câu đối đề tặng: là những câu đối làm ra để đề vào chỗ nào
đó hoặc tặng cho người khác.
Nếp giàu quen thói kình khơi, con cháu nương nhờ vì ấm
Việc nước ra tay chuyên bát, bắc nam đâu đấy lại hàng
(Lê Thánh Tông, câu đối đề ở một hàng bán giầu (trầu) nước)
● Câu đối tức cảnh: là những câu tả ngay cảnh trước mắt.
Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài
(Hồ Xuân Hương, vịnh cảnh trượt chân, ngã xoạc cẳng)
● Câu đối chiết tự (chiết: bẻ gãy, phân tách; tự: chữ): là
những câu do sự tách chữ Hán hoặc chữ Nôm ra từng nét hoặc từng phần
mà đặt thành câu.
Tự (字) là chữ, cất giằng đầu, chữ tử (子) là con, con ai con nấy?
Vu (于) là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh (丁) là đứa, đứa nào đứa
này?
● Câu đối trào phúng: là những câu làm để chế diễu, châm
chích một người nào đó.
Cung kiếm ra tay, thiên hạ đổ dồn hai mắt lại.
Rồng mây gặp hội, anh hùng chỉ có một ngươi thôi
(Câu đối tặng một người chột mắt mới đỗ khoa thi võ)
● Câu đối tập cú: là những câu lấy chữ sẵn ở trong sách hoặc
ở tục ngữ, ca dao.
Gái có chồng như rồng có vây, gái không chồng như cối xay không
ngõng.
Con có cha như nhà có nóc, con không cha như nòng nọc đứt đuôi.
● Câu đối thách (đối hay đố): người ta còn nghĩ ra những câu
đối oái ăm, cầu kỳ rồi người ta tự đối lấy hoặc thách người khác
đối. Lối đối này thường sử dụng nghệ thuật chơi chữ, đồng âm dị
nghĩa...
Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi xuống cọc,
nó cạch đến già
Con công đi qua chùa kênh, nó nghe tiếng cồng
nó kềnh cổ lại
(Câu đối có bốn chữ : cóc cách cọc cạch đối với bốn chữ công kênh
cồng kềnh)
Có những vế câu đối rất khó đối như:
Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử.
Vế này khó đối vì hồi hương (cũng có nghĩa "về quê") và phụ tử (cũng
có nghĩa "cha con") đồng thời lại là tên gọi các vị thuốc.
Vào vụ đông trường nam bón phân bắc trồng khoai tây, Sang xuân hạ
quyết tâm thu hàng tấn củ.
Vế này cũng khó đối vì đông, tây, nam, bắc (chỉ hướng địa lý) và
xuân, hạ, thu, đông (chỉ các mùa ở Việt Nam)
Da trắng vỗ bì bạch
Vế đối này của Đoàn Thị Điểm. Hiện nay, có khá nhiều người đối nhưng
chưa chỉnh. Thí dụ như câu "Tay sơ sờ tí ti"
có thể coi là được chăng? Tí cũng là tay, tí ti là một chút xíu,
cũng là một từ láy âm tay sơ là tay còn trong sạch, nguyên vẹn.
Xin đóng góp thêm một câu đối "rừng sâu mưa lâm thâm" hay "trời
xanh màu thiên thanh". Hiện nay có một câu đối mới đó là: "con
thầy bắt sư tử" do một học sinh cấp 3 vừa đưa ra.
Nguồn: Internet (Bách
khoa toàn thư mở Wikipedia)
+ Người tìm chọn và chia sẻ: KIẾN NGỐ
(Maryland 18-1-2012)
|
|