|
Tri ân người khai sáng
Người thầy còn được gọi là người khai sáng.
Chẳng cần phải giải thích theo nghĩa Hán Nôm, chỉ bình dân học vụ
cũng hiểu đó là người giúp cho đầu óc ta hết u tối. Loài người cần
được khai hóa để văn minh, và cần được khai sáng để làm người.
Ta có vô số những lời hay ý đẹp về giá trị của
người thầy và cái sự học hành.
Từ kiểu nói dân giã của người Việt như:
- Không thầy đố mày làm nên.
Cho tới văn vẻ hơn như:
- Ngọc kia không giũa, không mài
Cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi.
Hay xổ nho chùm:
- Ngọc bất trác, bất thành khí.
Nhân bất học, bất tri lý
(Trước 1975 ở Saigon có kẻ tào lao đã thêm câu
thứ ba: “Nhỏ không học lớn làm đại úy”. Mà đại úy đâu tôi không biết
chớ tôi từng quen biết một vị chuẩn úy già chỉ biết có cái chữ ký
với hình con chim bồ câu.)
Có người tạt ngang: “Thiếu gì kỹ sư, cử nhân
đang bị thất nghiệp kìa!” Mà đâu phải chỉ có dân tốt nghiệp đại học
mới lâm vào cảnh không tìm được việc, ở Singapore từng có một tiến
sĩ phải chạy taxi.
Nhưng đó là vì người ta có thói quen gán ghép
chuyện học với kiếm tiền: học để kiếm tiền. Trong thời buổi kinh
doanh cả giáo dục (một trong những lĩnh vực dễ hốt bạc) và khi xã
hội dựa trên tiền bạc, học được coi như một phương tiện để kiếm tiền
và để có vị thế xã hội. Để câu học trò, hầu hết các cơ sở giáo dục
đều quảng cáo nhấn mạnh tới chi tiết: học xong sẽ làm được chức này,
việc nọ rủng rỉnh tiền bạc.
Trong khi đó, bản chất và mục đích chính của
giáo dục là trang bị tri thức. Còn chuyện nhờ có tri thức tốt mà
kiếm được nhiều tiền lại là khía cạnh khác. Nó đơn thuần chỉ là một
kết quả của việc dày công học hành.
Một người bạn trên Facebook lấn cấn với chuyện
một số bạn bè sinh viên của mình bỏ học nửa chừng trước thực tế phũ
phàng là có những người tốt nghiệp đại học ra làm việc lương thấp
hơn công nhân. Bạn hỏi một câu xốn xang: “Cháu có nên tiếp tục học
hay không?”
Từ kinh nghiệm máu xương của đời mình, mà không thể quay lại để sửa
chữa, tôi chỉ có thể nói rằng: HỌC, CẦN PHẢI HỌC BẰNG MỌI GIÁ. Không
có điều kiện thì cố xoay xở để có điều kiện tối thiểu đủ để học,
không bao giờ bỏ lỡ một cơ hội học tập nào. Chuyện lương thấp, luơng
cao, chỗ tốt, chỗ xấu nó thuộc phạm trù xã hội, là khía cạnh khác.
Mà không chỉ xứ ta hay đời nay mới có đâu. Suy cho cùng, lương là sự
trả công nên nó tùy theo công sức và năng lực của từng người trong
một môi trường nào đó. Các bạn trẻ cứ an tâm mà học tới nơi tới
chốn, học cho thật nhiều, học tới lúc chẳng biết gì để học thêm nữa.
Vốn tri thức đó sẽ đem lại nhiều lợi ích cho ta cả đời đó. Học cũng
giống như của để dành, tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn, tích chữ
phòng thân. Đừng vì những cái ổ gà trước mắt (thậm chí ổ voi) mà bỏ
cuộc không tới được high-way thênh thang ở phía trước.
Nếu không được học hành đàng hoàng, ít nhất là đạt các chuẩn của xã
hội, ta sẽ bị thiệt thòi cả đời. Có thâm niên lắm, giỏi lắm thì cũng
chỉ tới level “chiến sĩ trưởng” là đội plafond (trần nhà); không thể
lên được “sĩ quan” đâu.
John Adams (1735 - 1826), luật sư, chính khách,
nhà ngoại giao, nhà lý luận chính trị và tổng thống thứ hai của Hoa
Kỳ, nói rằng: “Có hai kiểu giáo dục. Một kiểu dạy chúng ta làm thế
nào để sống, và kiểu còn lại dạy chúng ta phải sống như thế nào.”
Sứ mạng cốt lõi của giáo dục vẫn phải là dạy
cho con người làm người. Giáo dục bao gồm 2 vế: trang bị tri thức để
người ta có thể sống và dạy cho người ta biết cách sử dụng các tri
thức đó để sống. Càng sống lâu, tôi càng nghiệm ra tầm quan trọng
của sự học cho cuộc sống của mình. Người có học sẽ có đủ tri thức và
kỹ năng để xử lý những vấn đề của cuộc sống. Ngay chính bản thân
tôi, do hoàn cảnh nên không được học tới nơi tới chốn, chủ yếu tự
học kiểu “ba rọi”, nhiều khi thấy rõ là mình bị “đuối”. Tôi hiểu
rằng nếu được học đàng hoàng, bài bản, tôi có thể tự mình giải quyết
nhiều trường hợp nan giải. Kinh nghiệm cho thấy, người ta có thể tự
học để có một trình độ tri thức phổ thông nào đó, nhưng không thể tự
mày mò để có được một tay nghề ra tấm ra cám – nghề càng tinh vi,
càng phức tạp, càng cần phải được học có bài bản.
Không kể một số ít những kẻ thuộc loại “chó
nhảy bàn độc” hay “gặp thời thế”, người ta có được một vị thế xã
hội, có được một nghề nghiệp chuyên môn đều là nhờ được học hành
đàng hoàng. Kỹ sư, bác sĩ, kiến trúc sư, thạc sĩ, tiến sĩ,… đâu có
từ lỗ nẻ chui ra.
Nguồn minh họa: Internet.
Trong sách Quốc văn giáo khoa thư ngày xưa có
kể giai thoại Tổng thống Pháp Marie François Sadi Carnot thăm thầy
giáo cũ của mình. Một lần về thăm quê nhà, khi đi ngang qua trường
học ở làng, trông thấy ông thầy dạy mình lúc bé, bây giờ đã đầu tóc
bạc phơ, đang ngồi trong lớp dạy học, ông bèn ghé vào thăm trường và
chạy ngay lại trước mặt thầy giáo, chào hỏi lễ phép mà nói rằng:
“Tôi là Carnot đây, thầy còn nhớ tôi không?”. Rồi ông ngoảnh lại
khuyên bảo học trò rằng: “Ta bình sinh, nhất là ơn cha, ơn mẹ, sau
ơn thầy ta đây, vì nhờ có thầy chịu khó dạy bảo, ta mới làm nên sự
nghiệp ngày nay”.
Cha mẹ có công sinh ra ta LA NGƯỜI. Thầy cô có
công dạy dỗ ta THÀNH NGƯỜI. Ở chế độ phong kiến ngày xưa, xã hội đặt
người thầy lên vị trí số 2, chỉ sau vua (quân sư phụ). Dân gian từ
cổ chí kim vẫn khẳng định: công SINH không bằng công DƯỠNG (bao gồm
cả nuôi và dạy).
Tất nhiên, có thầy, ta vừa kính, vừa yêu; có
thầy, ta kính nhưng không yêu; thậm chí có thầy, ta gọi là thầy chỉ
vì thầy có thân phận như thế. Nhưng có hề gì. Thầy không dạy ta thì
dạy bạn ta, thậm chí dạy đồng hương, đồng loại của ta. Hơn nữa, thầy
cũng chỉ là con người, mà con người thì có đủ hỉ nộ ái ố, nhân vô
thập toàn.
Hôm nay, tôi ngồi ở đây viết được những dòng
tâm tình này cũng là nhờ được học từ biết bao thế hệ thầy cô – kể từ
chập chững vỡ lòng… Và cuộc sống bắt buộc tôi phải tiếp tục học cho
tới cuối đời – kể cả học làm sao để khi mình rũ bụi trần ai vẫn còn
có người nhớ tới mà thắp một nén hương và học làm sao để có thể an
nhiên tự tại về trình diện Đấng Tối cao.
Tôi tri ân không chỉ các thầy cô dạy dỗ mình,
mà còn tri ân cả các thầy cô của các con cháu mình. Không có biết
bao công lao tâm huyết của các THẦY CÔ, chúng tôi chẳng thể THÀNH
NGƯỜI.
phạm hồng phước
(Saigon, ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11-2012)
|