Bói Kiều
Thúy Kiều và Kim Trọng.
Tranh khắc gỗ của Nguyễn Tư Nghiêm. (Nguồn: Internet).
Ai là người Việt mà không
biết truyện Kiều. Thuở trước người bình dân thuộc truyện Kiều qua
lối truyền khẩu trước cả khi tác phẩm bằng chữ quốc ngữ được xuất
bản. Các nhân vật trong truyện linh động tới mức trở thành hiện thực
sống với đời thường. Cả nước ta chẳng còn ai dám đặt tên con là Sở
Khanh. Bà vợ nào bị gọi là Hoạn Thư thì tức lộn ruột. Đến như bậc
thâm nho nghiêm túc Chu Mạnh Trinh cũng cảm ứng với nàng Kiều, khiến
phải thốt lên, “Bộc bản đa tình, cảm thông đồng điệu.” (Ta vốn đa
tình, cảm thương người cùng cảnh (Thanh Tâm
tài nhân tập tự). Nguyễn Du là bậc kỳ tài, cụ dùng
3.254 câu thơ lục bát gói ghém hầu hết mọi cảnh ngộ của cuộc đời. Từ
ông già lọm khọm khó tính đến cô thôn nữ ngây thơ, ai cũng tìm ra
một vài câu hợp với hoàn cảnh của mình.
Nếu
có những tác phẩm nghệ thuật gây ra mối cảm xúc trong tâm hồn độc
giả cũng là điều dễ hiểu. Nhưng tin những nhân vật trong truyện có
thật, mà mình có thể cầu nguyện với họ, là một chuyển hóa tâm linh.
Đó là trường hợp khác thường của Truyện Kiều. Niềm tin này đã tác
động tới lãnh vực bói toán và tạo nên phong tục bói Kiều.
Thuở trước, bói Kiều là
một trong những tục lệ của ngày Tết. Người ta bói Kiều để xem vận
hạn cả năm ra sao (niên vận). Đó là một nghi lễ nghiêm chỉnh có
nhang đèn đi kèm. Sau này người ta coi bói Kiều như một thú chơi tao
nhã với bạn bè và thân nhân trong dịp xum họp đầu năm. Dần dần bói
Kiều trở nên phổ cập, bất cứ lúc nào gặp cảnh khó khăn, người ta
cũng có thể bói Kiều để tìm tư vấn cho mình.
Nhưng bói Kiều là gì? Lời
giải thích của học giả Phan Kế Bính (1875-1921) đã tóm tắt ý chính
của nó: “Bói Kiều là mình có việc gì muốn được biết hay dở đường nào
thì khấn với Thúy Kiều, Kim Trọng xin cho mấy câu dòng nào, gặp chỗ
nào thì lấy mấy câu thứ mấy ở trang ấy mà đoán. Cách này là một cách
bói chơi, nhưng cũng nhiều khi nhiều người cho là nghiệm" (Việt
Nam Phong Tục, chương XXI).
Các học giả chưa thể xác
định tục lệ bói Kiều đã có từ thời nào. Trong tác phẩm Lều Chõng của
Ngô Tất Tố có miêu tả cảnh bói Kiều. Như vậy bói Kiều đã có từ thời
mà các Nho sinh còn phải ì ạch vác lều chõng đi thi, tức giữa thế kỷ
19. Khi đó ấn bản chữ nôm Truyên Kiều đã phát hành. Sách quốc ngữ cũ
nhất nói về bói Kiều là quyển Sách bói Tập Kiều kiến nghiệm,
nhà xuất bản Vũ Thắng, Nam Định, ấn hành năm 1937. Không biết nhà
xuất bản nghĩ thế nào mà không đề tên tác giả.
Có một điều quan trọng cần
minh xác về thể thức bói Kiều. Câu thơ Kiều dùng để bói hoàn toàn
độc lập với nội dung truyện Kiều. Nghĩa là ta chỉ căn cứ vào biểu
tượng mà câu thơ nêu ra chứ không vướng mắc vào xuất xứ hay sự tích
của nó. Chẳng hạn nếu bạn nhận được một quẻ trích lời nói của Sở
Khanh, điều ấy không có nghĩa là xấu. Câu thơ đó không còn liên hệ
gì đến Sở Khanh nữa. Nó chỉ là điềm dẫn tới một hướng đi nào đó mà
thôi.
Có ba cách bói Kiều chính,
tôi xin được tóm lược sau đây.
Bói Kiều theo kiểu dân dã
Sách căn dặn: người xin
quẻ phải có lòng thành tập trung tâm trí vào điều mình xin. Điều này
dĩ nhiên rồi. Sau đó chắp tay tụng câu:
“Lạy vua Từ Hải, lạy vãi
Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều, lạy Kim Trọng, Thúc Sinh..., con tên
là… sinh ngày...tháng...năm..., hiện trú tại.... Con xin một quẻ về
đường… (công danh, nhân duyên).... cho....”.
Khấn xong ta nhắm mắt lại,
hay mở mắt nhưng không có ý nhìn, lấy tay mở cuốn Truyện Kiều ra.
Mắt vẫn nhắm lấy ngón tay đặt vào một điểm trên trang sách. Rồi mở
mắt ra đọc đoạn thơ mà ngón tay mình đặt vào. Đó là đoạn thơ ứng với
việc mình xin. Sau đó tùy theo ý của đoạn thơ mà suy ra lời giải.
Trước khi mở sách có 3
điều bạn cần biết:
1. Người nam lật sách bằng
tay trái. Người nữ lật sách bằng tay phải (nam tả nữ hữu). Có chỗ
cho rằng người xin bói cầm sách bằng 2 tay đưa ra trước mặt, rồi
dùng 2 ngón cái lật sách bung ra. Sau đó nếu là nữ thì coi thơ ở
trang bên phải, nếu là nam thì coi thơ ở trang bên trái.
2. Chọn câu thơ bằng cách
hoặc lấy ngón tay trỏ đặt vào một điểm trên trang sách, hoặc lấy 4
câu đầu của trang sách đã chọn
3. Không được dùng trang
đầu và trang cuối sách. Những đoạn thơ ở 2 trang đó chỉ nhằm giới
thiệu tổng quát về luận đề của tuyện Kiều, nên không thể dùng để
bói.
Bói Kiều theo sách bói toán
Trước
hết xin nhớ, cách bói này cấm trẻ vị thành niên. Luật bắt buộc người
xin quẻ phải trên 15 tuổi. Trẻ dưới 15 tuổi coi bói thì quẻ hết
linh. Đây là cách bói rắc rối vì phải dựa vào cách tính theo bốc phệ
như bát quái, thập can, ngũ hành, tam tài… Dụng cụ bói gồm có một
cái dĩa với hai đồng xu (có nơi nói ba đồng xu) để gieo quẻ và phải
có sách bói dịch để đối chiếu. Khi gieo quẻ bằng đồng xu phải tuân
thủ quy ước “nam tả nữ hữu”. Nữ gieo đồng xu bằng tay phải, nam gieo
xu bằng tay trái.
Khác với kiểu bói bình dân lật sách trực tiếp từ quyển Truyện
Kiều. Trong cách bói này, người ta phải dùng quyển Bói Kiều
làm căn bản. Bói Kiều là sách do các cụ làm luật bói soạn
ra. Sách phân loại những cảnh ngộ của cuộc đời nàng Kiều thành 18
chủ đề. Số 18 là hợp số của thập căn (10 gốc) và bát quái (8 thể) mà
thành (10+8=18). Bởi vì không phải bất cứ câu thơ nào trong truyện
Kiều cũng có thể dùng cho bói toán, nên các cụ lọc ra 270 câu lục
bát (54x5=270), tức 540 hàng, ứng với 18 chủ đề. Như vậy số thơ
trong sách Bói Kiều chỉ có 1/7 văn bản truyện Kiều.
Theo ông Phạm Đan Quế, tác
giả nhiều sách bói Kiều, 18 chủ đề phân loại như sau:
Bát quái
1. Càn - Niên vận: cả năm
tốt hay xấu.
2. Khảm - Công danh: thăng
bổ sớm hay muộn.
3. Cấn - Tài lộc: tiền của
dồi dào hay hao hụt.
4. Chấn - Âm tín:
muốn hỏi tin tức một ai đó.
5. Tốn - Tranh
tụng: kiện tụng được hay thua.
6. Ly - Bình an:
vận nhà bĩ hay thái
7. Khôn - Hôn nhân:
vợ chồng tốt hay xấu
8. Đoài - Thương
mại: buôn bán lỗ hay lãi
Thập can
9. Giáp - Thiên di: đổi
chỗ ở động hay êm
10. Ất - Tật bệnh:
Bệnh nặng hay nhẹ.
11. Bính - Khoa đồ: thi đỗ
hay hỏng.
12. Đinh - Tử tức:
đường con cái ra sao.
13. Mậu - Xuất hành: ra đi
may hay rủi.
14. Kỷ - Truy tầm: tìm
kiếm thấy hay mất.
15. Canh - Ưu tư: lo sự
lành hay dữ.
16. Tân - Thám yết: đi
thăm có được không.
17. Nhâm - Kỹ nghệ: nghề
nghiệp lợi hay hại.
18. Quý - Tâm sự:
tình riêng có toại hay không.
Muốn coi bói, trước hết phải cho biết muốn coi về đường gì, chẳng
hạn đường công danh. Sau đó người xin bói cầm hai đồng tiền xu thảy
vào dĩa để tìm vị thế trong tam tài. Nếu 2 đồng xu ngửa hết là
dương, tức thiên. Nếu cả hai sấp hết là âm, tức địa. Nếu một sấp một
ngửa là vừa âm vừa dương, tức nhâm. Sau đó tính toán dựa theo sự kết
hợp trong ngũ hành: kim mộc thủy hỏa thổ để tìm ra số mục của quẻ
ứng với câu thơ.
Thí dụ: xin một quẻ về đường công danh. Công danh ứng với “khảm”,
tức số 2 trên bảng bát quái. Tìm số 2 trên bảng ngũ hành thấy ứng
với “mộc”. Sau đó gieo 2 đồng xu. Ví dụ cả 2 xu đều sấp, tức “địa”.
Như vậy ta có: khảm mộc địa. Dựa trên 3 cửa trên để dò trên bảng lý
số để biết quẻ số mấy. Được số của quẻ rồi ta phải trao cho vị giải
quẻ, rồi tùy vào cuộc vấn đáp với vị này ta sẽ có lời giải. Như vậy
chỉ những vị giải quẻ chuyên môn mới đủ kiến thức làm việc này.
Cứ nghĩ đến cảnh cụ đồ
vuốt râu ngồi bên đống sách chữ Nho, trước mặt là bát nhang khói lên
vu vơ, là đã thấy không khí huyền bí của thần linh rồi. Khỏi nói, ai
cũng nhận ra cách bói nghiêm túc này ắt do các cụ nhà Nho giỏi ngành
bốc phệ lập ra.
Bói Kiều theo giáo lý Phật giáo
Ngày nay phong tục bói
Kiều được vài nơi làm sống lại. Trong số đó tôi thấy có cộng đồng
Phật giáo Làng Mai ở bên Pháp. Theo tôn chỉ “chết là thể xác, còn là
tinh anh”, họ định nghĩa bói Kiều là tham khảo ý kiến, qua tâm linh,
cụ Nguyễn Du, sư Giác Duyên, và đạo cô Tam Hợp để nhờ họ chuyển hóa
hoàn cảnh của mình. Đây là sáng kiến dựa vào niềm tin dân gian để
đưa ra một hỗ trợ tinh thần trong đời sống. Một hướng đi có tính
cách giáo dục và bảo tồn văn hóa dân tộc.
Bói Kiều trong chùa
Phật Giáo Làng Mai ở Pháp dịp Tết Canh Dần.
Cách thức bói Kiều Phật
giáo có thể coi như thể trung gian giữa cách bói bình dân và cách
bói theo sách. Nhà chùa soạn trước 210 quẻ, mỗi quẻ chỉ có 1 câu thơ
lục bát trích từ truyện Kiều. Sau đây là một quẻ điển hình:
Thông minh vốn sẵn tính trời
(29)
Nhẹ nhàng nghiệp trước, đền
bồi duyên sau (2690)
Những quẻ này được bỏ vào
một cái chuông. Người xin quẻ trước hết phải có lòng thành đến xá
tượng Phật ba lạy rồi khấn như sau:
Cầu thi thánh Nguyễn Du
Cầu đạo cô Tam Hợp
Cầu Sư Trưởng Giác Duyên
Cầu giáng tiên Thúy Kiều
Tôi tên
là.............................
Xin tham vấn thi thánh, đạo cô,
sư trưởng
và giáng tiên về vấn
đề...........................
Sau đó thò tay vào chuông bốc ra một quẻ. Quẻ
này được trao cho vị đoán quẻ. Vị này phải là một tu sĩ có kiến thức
chuyên biệt về truyện Kiều, kiến thức Phật pháp, và kiến thức về tâm
lý.
Theo tinh thần của giáo lý
Phật, trong câu lục bát một câu là quả và câu kia là nhân. Quả là
cảnh ngộ ứng với tâm trạng hiện tại của người xin quẻ. Nhân là lời
khuyên của các bậc anh linh để ứng phó với quả. Lời khuyên này
thường được vị đoán quẻ dẫn qua một bài thuyết pháp nho nhỏ. Thế là
ta vừa được coi bói vừa được nghe thuyết pháp.
Giai thoại bói Kiều
Giai thoại về bói Kiều có
rất nhiều, nhưng vì giới hạn của bài viết, nên tôi chỉ đan cử một
chuyện.
Năm 1944 quân Nhật ở Việt Nam sợ các ông Trần
Trọng Kim, Dương Bá Trạc, Trần Văn Ân, Đặng Văn Ký có thể bị Pháp
bắt nên họ chuyển các ông qua Singapore. Tại đây đời sống quá kham
khổ nên sau một thời gian các ông muốn trở về nước. Ông Dương Bá
Trạc nói: “Tôi thường không tin bói toán, nhưng tôi nghiệm thấy bói
Kiều hay lắm. Khi xưa tôi đi thi Hương, bói một quẻ biết là đỗ, mà
rồi đỗ thiệt. Sau bị đầy ra Côn Lôn, lại một hôm bói một quẻ, đoán
là sắp được về, mấy ngày sau quả là được về thật.” Ông Trần Trọng
Kim nói: “Vậy bây giờ ông thử bói một quẻ xem.” Sáng hôm sau ông
Dương Bá Trạc nói: “Chúng ta sắp được về. Tôi bói Kiều được hai câu
này:
Việc nhà đã tạm thong dong
Tịnh kỳ giục giã đã mong độ về
Theo ý đó chúng ta sắp được về.”
Ít lâu sau các ông đều
được về nước. Riêng ông Dương Bá Trạc, chẳng may bị bệnh nặng, nên
đã qua đời ở Singapore. (Ðặng Minh Phương. Trích trong hồi ký của
Trần Trọng Kim, Phạm Khắc Hòe, và nhật ký của Lê Văn Hiến.)
Với bất cứ lý do nào và
theo kiểu cách nào, bói Kiều đã trở thành nét đặc thù văn hóa của
dân Việt. Nó là một hình thức an ủi tâm lý cho đại chúng thuộc đủ
mọi thành phần giai cấp trong xã hội. Quả là kỳ diệu một cuốn tiểu
thuyết tình cảm thuần túy văn chương lại có thể thấm vào nếp sống
con người một cách đa dạng như vậy. Chúc quí vị, những ai thích bói
Kiều, sẽ rút được một quẻ tốt. Đối với quí vị chẳng tin bói toán,
nhân dịp đầu năm, cũng nên lật một trang sách Truyện Kiều, để cảm
thấy gần gũi với tâm tình dân tộc. Học giả Phạm Quỳnh đã có lần nói:
“Truyện Kiều còn tiếng Việt còn. Tiếng Việt còn nước Việt còn.” Đúng
là một câu nói để đời.
ĐỖ NGỌC
TRANG
(Elk Grove,
California, USA 8-3-2013)
------------------
Hình minh hoa: Internet
Sách tham khảo:
Đặng Cao Ruyên. 2010. Truyện Kiều Nghệ Thuật
và Lan Tỏa. Tổ hợp xuất bản miền Đông Hoa Kỳ.
Đặng Minh Phương. 2007. Lý Thú Về Bói Kiều.
Nguồn internet.
Lãng Nhân. 1979. Chơi Chữ. Cơ sở xuất
bản Zieleks.
website langmai.org. Ngày Xuân Bói Kiều
|