| 
			CHUYỆN NHIỀU TẬP CỦA GIA ĐÌNH BÀ TÁM TÀNG: 
			Ai buồn hơn ai?     
			
			* tạp bút   
			  Nhân sự kiện ầm ĩ sau 
			khi tác phẩm Cánh đồng bất tận của nhà văn nữ Nguyễn Ngọc 
			Tư được đưa lên thành phim và được nhiều người nhiệt tình tán 
			thưởng, tôi chợt nhớ đến một chi tiết thật buồn trong câu 
			chuyện! Do cái buồn cho hoàn cảnh lúc đất nước ta còn 
			nhiều khó khăn nên buồn vay cho những kiếp người tận đáy xã 
			hội, lấy nhân phẩm của mình để làm vốn tự có mà sinh nhai. 
			Biết bao hệ lụy buồn hiu tiếp đến do đám theo đóm ăn 
			tàn rỉa rói vây quanh?! Rồi cuộc đời của họ về đâu khi tuổi 
			xuân trôi đi và cái già quẩn quanh xuất hiện? Trong câu chuyển kể hôm 
			nay, tôi không dám đưa ra một lời bình luận nào hay cao cấp 
			hơn là làm thầy đời để được dạy dỗ lại cho một ai cả. Đơn 
			giản như đang giỡn là vậy. Thật thà hơn, tôi chỉ 
			xin được làm người… hóng chuyện bên đường, rồi nóng lòng 
			học lại cho mọi người được nghe một chút vậy thôi! 
			 Chuyện kể rằng: 
			 Một hôm rỗi việc, tôi 
			thả ra đầu ngõ có quán cà phê cóc của dì Hai Lành. Ngồi 
			chờ chưa nhỏ hết giọt đắng trong phin cà phê thì đã nghe 
			bên đường tiếng mụ Tám Miền oang oang: “Một tháng nữa là tao 
			lộc phát niên rồi, còn sợ nghèo gì nữa mà giấu chuyện 
			tụi bay.” Mụ ta mở đầu buổi chuyện bù khú ở quán cà phê 
			như vậy. Rồi sau đó tiếp lời: - Một cái phé nại ví 
			lại 2 điếu hê-rô. Như chiếc truyền hình 
			đen trắng lâu đời, tiếng nghe trước đến một  lúc sau hình 
			mụ Miền mới từ từ xuất hiện. Bà ta cười toe toét bước 
			vào với bộ y phục quen thuộc từ thuở mụ ta bỏ phố về 
			đồng: chiếc áo hoa vàng khoét cổ rộng đi đôi với chiếc 
			quần saten trắng bóng lưỡng. “Năm tới là tao lộc phát. Hết 
			sợ nghèo rồi. Đứa nào muốn hỏi gì thì hỏi?”  Thằng Hai Rơm lên tiếng: - Bà Tám kể cho tụi 
			tui nghe chuyện thời chăn dắt mấy con "ghệ" ở Sài Gòn của 
			bà đi bà Tám? Rít một hơi dài khói 
			thuốc Hero thơm lừng trong tư thế ngồi tránh nước lụt, tay 
			gảy gảy tàn thuốc bay tùm lum theo làn gió sớm, mụ Tám 
			trầm giọng để chuyện kể của mình thêm phần quan trọng: - Từ từ rồi sẽ đến. 
			Tụi bây có biết nhà văn nữ Nguyễn Ngọc Tư nào đó ở Cà Mau 
			nổi tiếng với cuốn "chiện" Cánh đồng bất tận hông? Cả quán lặng thinh vì 
			chưa ai biết đến! Mụ rít tiếp một hơi thuốc dài rồi chiêu 
			thêm một ngụm phé nại còn nóng hổi ngon lành. Mụ nghếch 
			mặt về hướng tôi ngồi rồi hỏi: - Thầy Út mày biết 
			hông? Tôi se sẽ gật đầu. Mụ 
			hớn hở ra mặt vì cho mình đã gặp tri kỷ: - Ít ra cũng phải có 
			người thấu hiểu hoàn cảnh mà thông cảm tụi tao chớ. Khổ 
			lắm mới làm nghề bậy bạ này chứ ai ham hả tụi bây? 
			 Rồi như để chứng tỏ 
			mình cũng là tay biết đọc sách, mụ lên tiếng phân tích tác 
			phẩm nổi đình nổi đám một thời này: - Cái cô nhà văn Ngọc 
			Tư này tả cảnh chiều chiều trên bờ đê cả bầy gái ăn "sương 
			sa hột lựu" chạy cồng cồng ngoắc mấy thằng chạy ghe chở 
			lúa dưới sông thấy mà ham!? Tụi nó giàu cha đời rồi mà 
			than thở nổi gì? Chứ hồi tụi tao ở trên Sài Gòn núp mấy 
			gốc cây ngoắc khách mà bụng sợ công an bắt thấy bà nội! Tôi thắc mắc liền hỏi: - Cớ gì mà dì Tám 
			nói "ấy"miền tây giàu có hơn Sài Gòn? Mụ Tám cười ha hả đắc 
			chí nói to: - Sao hỗng giàu có mậy? 
			Mỗi lần mấy thằng chạy ghe chở lúa "ấy", mấy con “sương sa 
			hột lựu" miền Tây tụi nó được cả thúng lúa. Hồi đó ỏ chỗ 
			tụi tao làm ăn khó nhiều, phần bị phú lít quần tới quần 
			lui, phần khách phong lưu hồi nẳm eo hẹp tiền bạc nên có khi 
			phải hạ giá xuống chỉ còn bằng... một ổ bánh mì thịt 
			thôi. Tôi lè lưởi rồi chắc 
			lưỡi xót xa: - Thiệt chơi dì Tám? Mụ Tám trợn mắt nhìn 
			tôi: - Tao già rồi mà nói 
			láo với tụi bây à? Rồi mắt mụ chợt trầm 
			xuống, giọng như ai oán hối tiếc cho điều lầm lỗi khi xưa: - Nói tội lỗi, hồi đó 
			đói quá nên khôn sống mống chết. Tụi bây biết hôn, có hôm 
			quá vả, khách cho có một ổ bánh mì thịt. Tao làm tào kê 
			nên giữ phần huê lợi. Lúc chia phần theo tỉ lệ 5/5, tao phải 
			dùng mánh lới mới giành phần hơn mấy con quỉ cái đó. Thằng Hai Rơm há hốc 
			miệng nghe chuyện nãy giờ tới đây nôn nóng lên tiếng: - Mánh gì vậy bà Tám? - Có gì khó đâu mậy, 
			tay mặt tao cầm thật chặt ổ bánh ngay chính giữa, tay kia tao 
			tao bóp phần còn lại nhẹ hơn. Thế là bẻ đôi cái ổ bánh 
			ra chia hai dễ dàng. Thằng Hai Rơm tiếp tục 
			thắc mắc: - Tay chặt tay lỏng để 
			làm gì bà Tám? Mụ Tám Miền cười ha 
			hả: - Mày ngu quá! Làm như 
			vậy thì hồi chia ổ bánh làm hai, phần tay mặt của tao được 
			lời thêm miếng dưa leo cắt dọc... Mọi người ồ lên khen 
			hay cho kế độc của bà già đã một thời làm nghề hạ lưu 
			trong xã hội. Ở nhà quê cũng có 
			nhiều cái hay. Nhất là tình cảm dễ dàng hòa nhập và tha 
			thứ lỗi lầm cho nhau, chỉ một thời gian ngắn là người ta 
			không còn phê phán chia phân giai cấp nhau một khi người phạm 
			lỗi biết quay về cuộc sống bình thường như mọi người khác. 
			Nhưng sự đời có hoàn toàn đúng thế hay không? Hãy xem tập 
			chót: Một thằng choai choai 
			bán vé số lợi dụng lúc mụ Miền say sưa nói chuyện, nó nhè 
			nhẹ với tay nhón lấy điếu thuốc mồ côi của mụ. Thiên bất 
			dung gian, đúng lúc mụ quay lại tìm cái hộp quẹt để đốt 
			lại điếu thuốc bị tắt ngúm bởi mãi lo tám chuyện. Mụ nắm chặt tay thằng 
			nhỏ và gầm lên: - Tổ cha mày,ăn cắp đồ 
			cảo dược của bà hả? Tao đập mày chết ngắt nè… Thằng nhỏ mặt xanh hơn 
			tàu lá chuối. Nó vái lạy bà Tám lung tung. Dì Hai Lành chủ quán 
			thấy vậy ra can thiệp: - Thôi, dì Tám bớt 
			giận. Để tui bắt nó xin lỗi dì. - Ờ, con Hai mày nói 
			nghe được đó. Quay sang thằng nhỏ 
			trộm thuốc lá, dì Hai bảo: - Xin lỗi bà Tám đi con 
			rồi bà Tám tha cho mày. Thằng bé mừng rỡ ra 
			mặt. Nó lăng xăng liếng thoắng van lạy: - Con xin lỗi bà Tám... 
			“đĩ”. Ngàn lần con hỗng dám ăn cắp của bà Tám “đĩ” nữa. Lạy 
			bà... Cả quán bỗng lặng như 
			tờ. Nhạc đang trỗi bản gì đó buồn nẫu ruột: Đàn thiên 
			thu đứt giây tơ rồi… Liệu lâu dần rồi đời 
			có quên? 
			
			ngô bảo toàn - dnnp
 (Tân An 8-11-2010)
 
			  
 
			  
				
					| 
						
							|  | 
						 + Thứ Ba 9-11-2010: 
						- Thầy Đỗ Ngọc Trang - cô Nguyễn 
						Thị Bích Thủy (California):  
						Lời phụ thêm sau khi đọc tạp bút Ai 
						buồn hơn ai? của thầy Ngô Bảo Toàn. Tôi phỏng định rằng 
						chúng ta đều đã biết truyện Cánh Đồng Bất Tận của 
						Nguyễn Ngọc Tư, nên xin không nhắc lại câu truyện ở đây. 
						Có những cái tên như một định mệnh. Một kẻ “Võ” biền và 
						một cô gái ăn “Sương” bị đẩy vào cùng một đáy vực. Họ 
						bắt buộc phải sống đày đọa bên nhau vì họ không có một 
						chọn nào khác để thoát thân.
 
						Đó là bối cảnh cho dòng tư tưởng mới trên nền văn học 
						hiện đại. Nó có cái vỏ bề ngoài như tận dụng triết lý 
						hiện sinh để trình bày cái vô lý và bi thảm của đời 
						sống. Nhưng cốt tủy của mối suy tư lại là niềm tin vào 
						cái phẩm (quality) của sự sống. Như hoa sen vươn khỏi 
						bùn hôi, con người dù bị nhận chìm trong xã hội băng 
						hoại vẫn có khả năng vươn khỏi chính mình để lộ ra những 
						giá trị nhân bản. Trái cam bị giẫm nát, nó vẫn chảy ra 
						chất nước ngọt. Bởi vì đó là tất cả những gì nó có ở bên 
						trong. Con người luôn luôn là nạn nhân của xã hội, nhưng 
						con người cũng luôn luôn là một thực thể tự do. Cốt tủy 
						của bản tính tự do là lòng yêu thương. Chỉ có tự do mới 
						có yêu thương đích thực. Không thể có tình yêu khi bị 
						bắt ép buộc hay bị lường gạt phải yêu. Chỉ có yêu thương 
						mới mang lại ý nghĩa cho mọi hành động, dù xấu cũng trở 
						nên cao cả. Dù là điếm, Sương cũng biết yêu Võ. Nhưng 
						nghịch đời, Sương phải “đi khách” để có tiền giúp Võ. 
						Không thể có một mối tình kỳ dị như vậy ở nơi khác. Ở 
						đây nó rất thật và đẹp.
 
						Một điểm đặc biệt trên nền văn học thế giới, xã hội Việt 
						Nam là nơi được dùng để trình bày quan điểm ấy. Nguyễn 
						Ngọc Tư nói về miền Tây Việt Nam là một điều hiển nhiên, 
						vì cô sinh trưởng ở Cà Mau. Ở một nơi xa lạ, Jay Wurt 
						viết quyển When Heaven and Earth Change Places 
						(1989), dựa theo hồi ký của Lệ Lý Hayslip. Truyện kể về 
						chính cuộc đời của Lệ Lý bị hiếp dâm, bị đẩy vào đường 
						làm điếm từ khi chưa tới 15 tuổi. Sách được tái bản đến 
						3 lần (1990, 1993, 2003). Năm 1993, đạo diễn Oliver 
						Stone, Hollywood, chuyển truyện thành phim với tựa đề 
						Heaven and Earth. Cả sách và phim đều thành công 
						vượt bực. Câu truyện thứ ba là vở nhạc kịch Miss 
						Saigon của Claude-Michel Schonberg và Alain Boublil. 
						Truyện kể về một cô gái điếm sống với một anh lính Mỹ. 
						Họ có với nhau một đứa con. Sau khi Saigon sụp đổ, người 
						lính trở về Mỹ, còn cô gái bị bỏ lại. Cô gái tìm đủ mọi 
						cách, kể cả hy sinh mạng sống của mình, để hai cha con 
						gặp nhau. Kịch được trình diễn ở đại hý viện West End, 
						London, từ năm 1989 đến năm 1999, liên tục gồm 4.264 
						lần. Sau đó kịch được trình diễn tại đại hý viện 
						Broadway, New York, 4.092 lần, từ năm 1991 đến 2001. Năm 
						2009 nhà sản xuất Paula Wager cho dựng thành phim với 
						đạo diễn Lee Daniels. Wager cho biết vào năm 2011 phim 
						mới hoàn tất.
 
						Nhiều người có thể ngạc nhiên khó chịu thắc mắc, tại sao 
						cứ phải nói tới gái điếm. Theo tôi nghĩ, chỉ có họ mới 
						có thể tiêu biểu cho lớp tiện dân bất lực nhất. Có lẽ 
						không nhất thiết phải trả lời câu hỏi “Ai khổ hơn ai?”. 
						Bởi vì hình như nó không phải là một câu hỏi, nhưng là 
						một lời an ủi cho những tâm hồn đang đi tìm một niềm 
						tin.
 
			  |  |  |  
			  
			  |