hồi ức về nhau

 

                                                         

 

 

 

 

 

Ngày mẹ ra đi

 

 

Buổi sáng thứ bảy trời se lạnh vì đã vào đông. Cả nhà cùng đi lễ vì là lễ giỗ chị Chiêu để cầu nguỵên cho chị. Mấy ngày nay tôi đang bị cảm nên khi về lễ tôi vào giường đắp mền và ngủ một giấc dài.

 

Tới bữa ăn Huệ gọi dậy ăn cơm. Tôi tung mền ra thì thấy mẹ cũng đang đắp mền nằm giường bên cạnh. Thấy tôi ngạc nhiên nên Huệ nói ngay:

 

- Mẹ không được khỏe, anh xuống ăn cơm, thầy đã ăn rồi.

 

Tôi miễn cưỡng xuống bàn ăn, bữa cơm buồn quá chỉ có tôi, Huệ và ba đứa cháu nhỏ Thanh, Sơn và Đông. Ăn xong tôi lại lên giường nằm ngủ.

 

Buổi chiều tôi cố gắng đi học để làm bài kiểm tra môn Toán nhưng khi về đến nhà tôi thấy Huệ chạy ra nói giọng không được bình thường:    

 

- Hồi trưa đang ăn cơm mẹ làm rớt chén và chiều bị té hai lần.

 

Tôi bàng hoàng lo sợ nhưng chợt thấy thầy dẫn ông y tá gần nhà sang coi bệnh cho mẹ nên tôi thấy yên tâm.

 

Vào nhà thấy mẹ đang nằm trên giường. Ông y tá xem mạch xong cho biết mẹ bị bán thân bất toại vì bị đứt mạch máu, hy vọng chạy điện thì khỏi. Cả nhà nghe vậy mừng quá đứng quanh mẹ. Mẹ nhờ đấm bóp và sai lặt vặt. Mẹ nói lẩm bẩm với mấy đứa cháu nhưng chúng chẳng hiểu gì cả.

 

Tôi và cả ba đứa cháu xuống bếp ăn cơm tối. Huệ đi gọi ông Tứ vào. Ăn cơm xong lên nhà tôi thấy ông Tứ đang ẵm mẹ trên tay. Ông hỏi liên miên nhưng mẹ chỉ trả lời ú ớ.

 

Hàng xóm qua thăm đông lắm. Thấy bệnh mẹ có vẻ trầm trọng anh Bẩm đi mời Cha xứ vào để xức dầu. Khi đang xức dầu thì bất thần nghe một tiếng nổ chát chúa cách nhà không xa. Cha xứ sợ quá chạy vào hầm trú. Sự nhút nhát của Cha làm vài người suýt phải cười. Sau đó tôi được biết tiếng nổ đó là của trái lựu đạn do vài người lính say rượu gây lộn ném ra làm 4 người bị thương.

 

Lát sau có một thầy lang đến chữa nhưng bệnh mẹ vẫn không thuyên giảm. Sau có anh quân y ở gần nhà vào thăm và anh đề nghị đưa mẹ vào bệnh viện ngay vì trong đó hiện có đủ các bác sỹ, y sỹ đang xem bệnh cho các bệnh nhân bị thương bởi trái lựu đạn nổ vừa rồi.

 

Anh Bẩm mượn xe cha sở chở mẹ đi. Đi theo mẹ có bà Quản Trang, ông Tứ, Huệ, Gương và Bé Hai, tôi định đi nhưng thầy bảo ở nhà vì đang bệnh.

 

Thầy ra đàng trước bàn chuyện với mấy người hàng xóm và dặn dò đôi điều rồi sau đó anh Lới cũng chở thầy vào bệnh viện. Tôi đọc kinh cầu nguyện cho mẹ tôi qua khỏi, tôi hứa rất nhiều nếu mẹ tôi qua khỏi. Thầy trở về nhà vào giữa đêm.

 

Gần một giờ đêm anh Bẩm về cho biết bác sĩ đã xem bệnh mẹ và chích thuốc hồi sinh. Ở nhà chỉ có thầy và tôi giữa đêm khuya, tôi thấy vắng vẻ lạnh lẽo quá.

 

Thầy bảo tôi đi ngủ nhưng tôi chỉ nằm mà không ngủ được. Tôi nghĩ ngợi liên miên đến tình huống xấu nhất: nếu mẹ chết. Nhưng không, mẹ không thể chết được. Chẳng lẽ bao nhiêu mộng ước của tôi tan theo mây khói sao? Nào là lễ Giáng Sinh sắp tới tôi sẽ tổ chức lớn, làm hang đá thật đẹp và đi rước ở nhà thờ nữa. Nào là tết năm nay sẽ vui vẻ ăn lớn vì có đủ các anh chị như đã hẹn, nhất là anh Vinh vì từ nhỏ đến giờ tôi chưa thấy anh ăn tết với gia đình lần nào. Nào là năm nay tôi cố gắng học để đứng nhất, sẽ ôm phần thưởng về cho mẹ thích và rồi nếu mẹ mất thì gia đình sẽ ra sao ? Tôi không dám nghĩ tiếp và thiếp đi trong giấc ngủ chập chờn, lúc đó có lẽ khoảng 3 giờ đêm.

 

5g sáng bà Quản Trang về cho biết bác sỹ bảo mẹ bị đứt mạch máu, tay chân lạnh lẽo không cử động được.  Tôi lo sợ quá vì nếu như thế thì mẹ khó qua được. Thầy cũng rất lo lắng nhưng vẫn cố giữ vẻ bình tĩnh. Tôi lại năn nỉ cầu xin Đức Mẹ cho mẹ đươc khỏi. Tôi tin Đức Mẹ lắm vì đã bao lần tôi xin điều gì đều được cả và lần này tôi vẫn tin tưởng và hy vọng.

 

Chắc thầy đoán được mẹ không qua khỏi nên ngay sáng sớm thầy đã nhờ bà Quản Trang đi báo tin cho anh Môn đang học ở Mỹ Tho, anh Vinh đang đang dạy học ở Biên Hòa và chị Hải ở Phú Bình. Bà đã đi chuyến xe đầu tiên mặc dù bà rất muốn ở bên mẹ  trong lúc này. Ông Mậu nhờ người gọi điện thoại cho anh Hải biết tin. Anh Hải lúc này đang... đóng ở trại Bà Bèo thuộc tỉnh Mỹ Tho. Bà Mậu sang thu xếp nhà cửa, thầy và tôi không đi lễ mặc dù là ngày Chúa nhật. Một lúc sau Huệ về nói :

 

- Bác sỹ không cho nói nhưng cô y tá dặn riêng: mẹ không qua khỏi được đâu, vậy nếu có thân nhân thì đi báo cho họ biết.

 

Tôi thất vọng quá ra nhà thờ khấn. Gặp thằng bạn tôi kể chuyện cho nó nghe. Nghe xong nó bảo đứt mạch máu thì nguy lắm chắc không chữa được. Nó có nghe nói trước đây cũng có người bị đứt mạch máu, bác sỹ đã chữa được bằng cách lấy ống cao su nối lại nhưng cũng chỉ được một thời gian thôi. Tôi lại hy vọng mặc dù sự hy vọng như chỉ mành treo chuông.

 

Mười một giờ tôi ra bệnh viện. Vào phòng thấy mẹ nằm ngửa bất động trên giường, tay chân duỗi thẳng, hai mắt nhắm nghiền, vài con ruồi cứ vô tình bu quanh, chai nước biển thong thả chảy từng giọt. Nhiều người nhìn tôi với đôi mắt thương hại nhưng tôi không quan tâm đến. Tôi thương mẹ quá! Giờ này mà chỉ có tôi và Huệ ở bên cạnh. Tôi ước ao anh Hải có mặt giờ này vì tôi nghĩ chỉ có anh Hải mới có thể về bằng máy bay sớm được, còn anh Môn thì phải đến chiều, anh Vinh phải ngày mai.

 

Tôi và Huệ ngồi bên cạnh để canh chừng, Huệ thỉnh thoảng đút nước cam vào miệng mẹ cho khỏi khô cổ. Mấy người thăm mẹ bảo tôi về ăn cơm kẻo đói vì từ sáng đến giờ chưa ăn gì nhưng tôi không nghe.

 

Sau đó mẹ ói ra một thứ nước đen đục, máu đen rỉ ra ở chỗ mũi kim truyền nước biển, chai nước biển ngừng chảy, mẹ tắt thở. Bấy giờ là 13 giờ 30 ngày Chúa nhật 14 tháng 12 năm 1969 nhằm ngày 06 tháng 11 âm lịch.

 

Huệ khóc ầm lên , vài  người cảm động khóc theo. Bà Tứ lên phòng trực gọi y tá xuống. Riêng tôi không khóc, chính tôi cũng không hiểu tại sao lúc đó tôi không khóc hay là khi đúng trước một việc quá bất ngờ, một sự đau khổ tột cùng con người trở thành bất động, đầu óc tôi bấy giờ trống rỗng .

 

Y tá đến giường mẹ tôi ghi nhận, họ bỏ mẹ lên băng ca rồi khiêng lên xe hồng thập tự.  Tôi lên ngồi băng ghế trước.  Tôi hơi bực mình về mấy cô y tá cứ đùa giỡn với nhau. Họ xem cái chết như là chuyện thường tình. Huệ chạy xe Honda về trước báo tin cho thầy .

 

Tới trước cổng nhà xe dừng lại, hàng xóm bu quanh ở sân. Vài người đang lăng xăng dựng rạp. Họ khiêng mẹ đặt vào giường cá nhân, tắm rửa thay quần áo cho mẹ và cột chân tay lại, phủ trên mình tấm drap trắng tinh, tôi lấy bút ghi chữ MARIA lên mảnh giấy cài lên ngực mẹ để những ai vào viếng biết tên Thánh của mẹ.

 

15g30 anh Môn xuống xe, vừa bước vào cổng thầy tôi đã tu lên khóc :

 

- Mẹ chết rồi con ơi !

 

Anh Môn đến bên mẹ khóc lóc thảm thiết làm cho thầy, tôi và Huệ lai khóc theo. Tôi biết anh buồn lắm vì không được ở bên cạnh mẹ trong giờ hấp hối. Anh Môn kể lại hình như có sự huyền bí, linh thiêng nào đó vì khi bà Quản Trang đi báo tin cho anh ở Mỹ Tho thì bà cũng không biết rõ nhà, bà vào trong xóm vừa đi vừa gọi: Cậu Môn ơi, cậu Môn ơi. Anh Môn đang ở trong quán coi mấy người chơi bida nghe thấy và chạy ra, anh nói mọi khi thì ăn cơm xong anh chỉ ở nhà nghỉ, nhưng trưa hôm nay trong người bần thần khó chịu anh mới ra quán bida, nếu không thì chưa chắc đã biết tin mẹ mất!

 

Ngoài sân chiếc rạp đã hoàn thành. Ông Tứ vào nhà thờ mượn cờ tang. Anh Môn đi mua áo quan và vải về may áo tang. Anh Thu - Trưởng khối CTCT - cho người đến vẽ linh cữu mẹ. Ông Tứ đứng ra phụ trách việc mua bán thức ăn. Ông bà Mậu làm tiệc còn cô Ánh Linh nhận may quần áo tang.

 

Buổi chiều sau khi mãn giờ chầu. Đoàn Thanh Thiếu niên Thiện Chí  và đoàn Thiếu nhi Thánh thể vào đọc kinh, đặt vòng hoa. Ban huynh trưởng ở lại chia buồn và hỏi thăm. Rất nhiều người đến thăm, chia buồn với thầy và đọc kinh cho mẹ, vài người ở lại đến khuya mới về. Anh Môn và tôi thức với mẹ đến gần sáng.

 

Sáng ra chúng tôi đã có đồ tang để mặc. Chúng tôi còn bỡ ngỡ lắm vì chưa phải mặc áo tang lần nào. Thầy bảo tôi ra ngồi ở bàn để ghi sổ những người phúng điếu.

 

Buổi trưa đang nằm nghỉ bên trong thì nghe tiếng Sơn reo:

 

- Bà Lang Phác xuống.

 

Cô Lang vào nhà và khóc ầm lên: Chị ơi! Sao chị ra đi sớm vậy? Chị đi để anh ở lại một mình rồi ai nuôi mấy cháu?

 

Thầy đang nằm ở trong buồng, thấy khóc lóc ồn ào chống ba toong ra chỉ vào cô Lang:

 

- Cô im đi ngay, cấm không được khóc nữa, không khiến cô nuôi các con tôi.

 

Tôi chạy ra thì thấy cô Lang và chị Báu. Lạ quá! Sao giờ này không thấy anh Vinh, anh Hải xuống mà lại có cô Lang? Làm sao cô biết mà xuống nhanh vậy? Nhưng sau cô bảo là anh Hải đã cho tin và cô quá giang xe jeep ông quận trưởng Nguyễn Ngọc Mẫn xuống trước và anh chị Hải còn đi sau.

 

Một lúc có chiếc xe đò dừng trước cổng và tôi chạy ra. Anh Hải khóc luôn khi vừa xuống xe.  Có lẽ anh đang đau khổ trước tin mẹ mất. Tuy cố gắng bình tĩnh nhưng khi xuống xe thấy tôi mặc áo tang trông thảm thương nên không nhịn được. Anh chị Hải cùng các cháu và cậu Luận vào. Anh kéo khăn che mặt mẹ ra để những người mới xuống xem mặt.

 

Anh Hải đã kể lại khi nhận được tin mẹ mất trong máy điện thoại, anh quá bất ngờ, mất hẳn bình tĩnh và quát ầm lên với cấp trên về chuyện phải cho anh phương tiện về ngay. Vào thời điểm đó, vùng Bà Bèo, nơi anh đóng rất mất an ninh, phương tiện ra khỏi trại duy nhất là máy bay trực thăng. Anh đã cố gắng tìm mọi cách về ngay gặp mẹ nhưng không có máy bay. Mãi đến chiều mới có chuyến bay về tới Mỹ Tho lúc 7g tối, vì trời đã tối không còn xe đò về Sàigòn, anh phải thuê chiếc xe Honda ôm đi. Màn đêm phủ xuống, đường xá vắng vẻ, không còn xe cộ và người qua lại, đi như thế quả thật nguy hiểm, liều lĩnh nhưng anh vì mẹ, tất cả vì mẹ. Anh đã cố gắng vượt mọi trở ngại và về đến Sài Gòn lúc 9g đêm. Ngay đêm đó anh đã cho tin những thân nhân ở Sài Gòn biết tin mẹ mất. Anh nói vì đi trong đêm khuya nên cũng đã thủ sẵn trái lựu đạn trong người phòng khi gặp cướp ... chặn đường là anh liều mình.

 

Mọi người lại tiếp tục đọc kinh. Đang đọc thì anh Vinh vào. Chào mọi người xong anh gục bên quan tài mẹ. Anh Vinh bảo chiều hôm trước có nghe tin mẹ mất nhưng không có gì đích xác nên anh không về và sáng nay anh Hải cho tin anh vội về ngay, may mà còn kịp gặp mẹ nếu không anh sẽ ân hận!

 

Tối nay khách đến thăm và phúng biếu đông lắm. Đã có đủ mặt các con, có họ nội, họ ngoại chỉ còn thiếu gia đình anh chị Kiệm vì ở xa chưa về kịp. Thầy quyết định ngày hôm sau chôn cất mẹ.

 

9g tối lễ nhập quan, lúc đó chúng tôi khóc  nhiều lắm vì chẳng bao giờ còn được trông thấy mặt mẹ nữa.

 

6 giờ sáng anh Thu lái xe GMC đến chở linh cữu mẹ ra nhà thờ để làm phép xác. Lễ xong theo linh cữu mẹ ra ngoài tôi thấy năm chiếc xe GMC đã đậu sẵn.

 

Mấy anh em tôi lên xe có chở linh cữu mẹ. Đoàn xe từ Thánh đường ra đi vòng quanh dinh Tỉnh trưởng theo đường Đốc Binh Kiều rồi ra sân bay trực chỉ hướng nghĩa địa.

 

Khi lễ an táng xong, chúng tôi ở lại đắp đất, cài Thánh giá và đặt vòng hoa lên ngôi mộ mẹ. Anh Thu thay mặt gia đình cám ơn và mời mọi người về nhà dùng bữa cơm thân mật. Xong xuôi tất cả ra về.

 

Bữa cơm trưa rất đông và vui vẻ vì có cha Nguyễn Thái Sanh, tuyên úy Kiến Tường. Ăn xong thì bác Quản Thuyên gái và Thuyết, Hài xuống và mãi đến tối thì anh chị Kiệm và Chinh mới tới. Anh chị Kiệm tiếc rằng không được trông thấy mặt mẹ lần cuối nhưng vì hoàn cảnh ở xa phải chấp nhận.

 

Hôm sau họ hàng ra về, các anh chị ở lại vài ngày và khi xây cất mộ mẹ xong rồi cũng ra về cả, chỉ còn lại chị Hải và các cháu ở lại.

 

Bấy giờ tôi thấy thiếu mẹ. Trong nhà vắng vẻ quá, tôi đã khóc rất nhiều mặc dù đã được các anh chị khuyên nhủ. Tôi nghĩ rằng mẹ mất tôi là người thiệt thòi nhất vì tôi yếu đuối cần có sự chăm sóc của mẹ. Mẹ thương tôi lắm, tôi biết điều đó. Tôi  là  đứa trẻ  bị  tàn tật, yếu đuối ngay từ  nhỏ. Làm sao tôi có thể quên được những lúc mẹ tôi tất tả tìm thầy, tìm thuốc chữa trị cho tôi khi có ai mách bảo. Mẹ mất đi còn ai săn sóc an ủi tôi. Không ai có thể thay thế mẹ tôi được. Nhưng rồi tôi cũng nhận thấy nghĩ như thế là ích kỷ. Chính thầy đã sống với mẹ bao nhiêu năm trời, giờ đây một người ra đi một người ở lại làm sao không buồn được. Rồi đây ai sẽ săn sóc cho thầy khi chỉ còn có tôi và Huệ bên cạnh nhưng còn nhỏ dại. Lại còn Huệ nữa, là thân gái rất cần có sự hướng dẫn và bảo bọc của mẹ tôi trên đường đời, tôi thương Huệ lắm.

 

Nhưng nỗi buồn nào rồi cũng phai dần và tôi cố quên đi để tiếp tục con đường học vấn.

 

Kiến Tường ngày 30-12-1969


PHẠM NGỌC KHUÊ
(Ngọc Lâm)

 

 

 

Gia đình bạn Phạm Ngọc Khuê trước mộ phần của mẹ bạn trong ngày an táng bà.

Trong ảnh có:

- Phạm Doanh Môn (thứ nhất từ trái qua). Lúc đó đang học Đệ Nhất B2 ở trường Trung học Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho).

- Phạm Ngọc Khuê (thứ ba, từ trái qua). Lúc đó đang học Đệ Tam B THKT.

- Thân phụ của bạn Khuê mặc áo dài đen.

- Phạm Thị Huệ (mặc áo dài trắng). Lúc đó học Đệ Ngũ A1 THKT.

- Còn lại là anh chị em và cháu.

 

 C    (Ảnh do thầy Phạm Dzoanh Môn cung cấp và chú thích ngày 20-4-2010)

 

 

 

 


Copyright © 2010 Trung hoc Kien Tuong Homepage