Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thơ Đường luật hay Thơ luật
Đường là thể thơ Đường cách luật xuất hiện từ đời nhà Đường
(Tang), Trung Quốc. Thơ Đường luật gọi là thơ cận thể để
đối lập với thơ cổ thể, không theo cách luật ấy.
Vì giáo dục, thi cử... đều bằng tiếng
Hán, nên từ lâu người Việt Nam đã sáng tác thơ văn bằng tiếng
Hán, trong đó có thơ theo luật Đường.
Nguyễn Thuyên là người đầu tiên đưa
tiếng Việt vào thơ văn, đặt ra thể thơ Hàn luật, là sự kết hợp
thơ Đường luật với các thể thơ dân tộc Việt.
Thể loại thơ này của Việt Nam kéo dài từ
thời nhà Trần cho đến nửa đầu thế kỷ 20. Kể từ phong trào Thơ
Mới trở đi, số người trong nước làm luật thi đã bị giảm đi đáng
kể.
Thơ Đường luật có một hệ thống quy tắc
phức tạp được thể hiện ở 5 điều nghiêm khắc sau: Luật, niêm,
vần, đối và bố cục. Về hình thức, thơ Đường luật có các dạng
"thất ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu bảy chữ) được xem là dạng
chuẩn, biến thể có các dạng: "thất ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi
câu bảy chữ), "ngũ ngôn tứ tuyệt" (bốn câu, mỗi câu năm chữ),
"ngũ ngôn bát cú" (tám câu, mỗi câu năm chữ) cũng như các dạng
ít phổ biến khác. Người Việt Nam cũng tuân thủ hoàn toàn các quy
tắc này.
Luật
Điều căn bản của luật thơ Đường là
đối, đó là hai nguyên tắc đối âm và đối ý. Nghĩa là
lần lượt những câu thứ nhất, thứ 2, thứ 3, ... của câu trên phải
đối với các câu thứ nhất, thứ 2, thứ 3, ... của câu dưới cả về
âm và ý. Nhưng làm được như thế thì rất khó, vì vậy người ta quy
ước Nhất tam ngũ bất luật (câu thứ nhất, thứ ba, thứ năm
không cần theo luật).
Đối âm (Luật bằng trắc)
Luật thơ Đường căn cứ trên thanh bằng và
thanh trắc, và dùng các chữ thứ 2-4-6 và 7 trong một câu thơ để
xây dựng luật. Thanh bằng gồm các chữ có dấu huyền hay không
dấu; thanh trắc gồm các dấu: sắc, hỏi, ngã, nặng.
Nếu chữ thứ 2 của câu đầu tiên dùng thanh bằng thì gọi là bài có
"luật bằng"; nếu chữ thứ 2 câu đầu dùng thanh trắc thì gọi là
bài có "luật trắc". Trong một câu, chữ thứ 2 và chữ thứ 6 phải
giống nhau về thanh điệu, và chữ thứ 4 phải khác hai chữ
kia. Ví dụ, nếu chữ thứ 2 và 6 là thanh bằng thì chữ thứ 4 phải
dùng thanh trắc, hay ngược lại. Nếu một câu thơ Đường mà không
theo quy định này thì được gọi "thất luật".
Ví dụ: xét câu "Bước tới đèo Ngang bóng
xế tà" trong bài Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan, có các
chữ "tới" (thứ 2) và "xế" (thứ 6) giống nhau vì đều là thanh
trắc còn chữ "Ngang" là thanh bằng thì đó là bài thất ngôn bát
cú luật trắc.
Luật bằng trắc trong thể Thất ngôn tứ
tuyệt và Thất ngôn bát cú có thể nôm na liệt kê như sau, nếu chỉ
vần bằng bằng chữ "B", vần trắc bằng chứ "T", những vần không có
luật để trống, thì luật trong các chữ thứ 2-4-6-7 có thể viết
là:
- 1. Luật vần bằng
-
Câu số |
Vần |
Ví dụ: Mời trầu
của Hồ Xuân Hương |
1 |
|
B |
|
T |
|
B |
B |
Quả cau nho
nhỏ miếng trầu hôi |
2 |
|
T |
|
B |
|
T |
B |
Này của Xuân
Hương mới quệt rồi |
3 |
|
T |
|
B |
|
T |
T |
Có phải duyên
nhau thì thắm lại |
4 |
|
B |
|
T |
|
B |
B |
Đừng xanh như
lá, bạc như vôi |
Chữ thứ |
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
-
Câu số |
Vần |
Ví dụ: Thương vợ1
của Trần Tế Xương |
1 |
|
B |
|
T |
|
B |
B |
Quanh năm buôn
bán ở mom sông |
2 |
|
T |
|
B |
|
T |
B |
Nuôi đủ năm
con với một chồng |
3 |
|
T |
|
B |
|
T |
T |
Lặn lội thân
cò khi quãng vắng |
4 |
|
B |
|
T |
|
B |
B |
Eo sèo mặt
nước buổi đò đông. |
5 |
|
B |
|
T |
|
B |
T |
Một duyên hai
nợ âu đành phận |
6 |
|
T |
|
B |
|
T |
B |
Năm nắng mười
mưa dám quản công. |
7 |
|
T |
|
B |
|
T |
T |
Cha mẹ thói
đời ăn ở bạc! |
8 |
|
B |
|
T |
|
B |
B |
Có chồng hờ
hững cũng như không! |
Chữ thứ |
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
- 2. Luật vần trắc
-
Câu số |
Vần |
Ví dụ: Phong Kiều
dạ bạc (楓橋夜泊)
của Trương Kế (张继 Zhang Jì) |
Phiên âm Hán-Việt |
1 |
|
T |
|
B |
|
T |
B |
月落烏啼霜滿天 |
Nguyệt lạc ô
đề sương mãn thiên |
2 |
|
B |
|
T |
|
B |
B |
江楓魚火對愁眠 |
Giang phong ngư
hỏa đối sầu miên |
3 |
|
B |
|
T |
|
B |
T |
姑蘇城外寒山寺 |
Cô Tô thành
ngoại Hàn San tự |
4 |
|
T |
|
B |
|
T |
B |
夜半鐘聲到客船 |
Dạ bán chung
thanh đáo khách thuyền |
Chữ thứ |
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
-
- Bản dịch tiếng Việt của Tản Đà
(chuyển thể thành lục bát):
- Đỗ thuyền đêm ở bến
Phong Kiều
- Trăng tà chiếc quạ kêu
sương
- Lửa chài cây bãi sầu
vương giấc hồ
- Thuyền ai đậu bến Cô Tô
- Nửa đêm nghe tiếng
chuông chùa Hàn San
-
Câu số |
Vần |
Ví dụ: Nhớ bạn
phương trời1
của Trần Tế Xương |
1 |
|
T |
|
B |
|
T |
B |
Ta nhớ người
xa cách núi sông |
2 |
|
B |
|
T |
|
B |
B |
Người xa, xa
lắm nhớ ta không |
3 |
|
B |
|
T |
|
B |
T |
Sao đương vui
vẻ ra buồn bã! |
4 |
|
T |
|
B |
|
T |
B |
Vừa mới quen
nhau đã lạ lùng |
5 |
|
T |
|
B |
|
T |
T |
Lúc nhớ, nhớ
cùng trong mộng tưởng |
6 |
|
B |
|
T |
|
B |
B |
Khi riêng, riêng
cả đến tình chung |
7 |
|
B |
|
T |
|
B |
T |
Tương tư lọ
phải là trai gái, |
8 |
|
T |
|
B |
|
T |
B |
Một ngọn đèn
xanh trống điểm thùng |
Chữ thứ |
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
Đối ý
Nguyên tắc cố định của một bài thơ Đường
là ý nghĩa của hai câu 3 và 4 phải "đối" nhau và hai câu 5, 6
cũng "đối" nhau. Đối thường được hiểu là sự tương phản (về nghĩa
kể cả từ đơn, từ ghép, từ láy) nhưng bao gồm cả sự tương đương
trong cách dùng các từ ngữ. Đối chữ; danh từ đối danh từ, động
từ đối động từ. Đối cảnh; trên đối dưới, cảnh động đối cảnh
tĩnh... Nếu một bài thơ Đường mà các câu 3, 4 không đối nhau,
các câu 5, 6 không đối nhau thì bị gọi "thất đối".
Ví dụ: hai câu 3, 4 trong bài thơ Qua
Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
- Lom khom dưới núi tiều vài chú
- Lác đác bên sông chợ mấy nhà,2
"Lom khom" đối với "lác đác" (hình thể
và số lượng - thực ra hai câu này chưa phải đối hoàn chỉnh),
"dưới núi" đối với "bên sông" (vị trí địa hình), song nếu nối
hình ảnh hai câu trên "lom khom dưới núi" và "lác đác bên sông"
thì vì một câu diễn tả về cảnh động, còn một câu diễn tả về cảnh
tĩnh, nên sự đối lập có thể chấp nhận được. Một điểm nên chú ý
là cách dùng từ láy âm "lom khom" chỉ dáng người của câu trên,
và "lác đác" chỉ số lượng của câu dưới. Hai vế tiếp: "tiều vài
chú" đối với "chợ mấy nhà" (đối lập về số lượng và tĩnh/động).
Sự đối lập của hai vế cuối có thể coi là hoàn chỉnh. Xin xem
thêm về thơ đối hoặc Câu đối Việt Nam để hiểu thêm về luật đối
trong thơ.
Niêm
Các câu trong một bài thơ Đường giống
nhau về luật thì được gọi là "những câu niêm với nhau" (niêm =
giữ cứng, ở đây được hiểu là giữ giống nhau về luật). Hai câu
thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng
theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra
bằng niêm với bằng, trắc niêm với trắc. Ở những câu theo nguyên
tắc là cần phải niêm, nếu tác giả sơ suất mà làm thành không
niêm thì bài đó bị gọi là "thất niêm".
Nguyên tắc niêm trong một bài thơ Đường
chuẩn (thất ngôn bát cú) như sau:
-
-
- câu 1 niêm với câu 8
- câu 2 niêm với câu 3
- câu 4 niêm với câu 5
- câu 6 niêm với câu 7
Chẳng hạn với luật vần bằng:
-
-
- - B - T - B B
- - T - B - T B
- - T - B - T T
- - B - T - B B
- - B - T - B T
- - T - B - T B
- - T - B - T T
- - B - T - B B
Ví dụ: Xét trong bài thơ Qua đèo
Ngang, hai câu thứ 2 và thứ 3:
- Cỏ cây chen đá lá chen
hoa
- Lom khom dưới núi tiều
vài chú
Vần
Vần là những chữ có cách phát âm giống
nhau, hoặc gần giống nhau, được dùng để tạo âm điệu trong thơ.
Trong một bài thơ Đường chuẩn, vần được dùng tại cuối các câu 1,
2, 4, 6 và 8. Những câu này được gọi là "vần với nhau". Nếu một
bài thơ Đường mà chữ cuối của một trong các câu này không giống
nhau về vần thì được gọi "thất vận".
Những chữ có vần giống nhau hoàn toàn
gọi là "vần chính", những chữ có vần gần giống nhau gọi là "vần
thông". Hầu hết thơ Đường dùng vần thanh bằng, nhưng cũng có các
ngoại lệ.
Ví dụ: hai câu 1, 2 trong bài Qua đèo
Ngang của Bà Huyện Thanh Quan:
- Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà
- Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
hai chữ "tà" và "hoa" được xem là vần
với nhau, nhưng ở đây là "vần thông" vì chỉ phát âm gần giống
nhau.
Bố cục
Bố cục một bài thơ thất ngôn bát cú
Đường luật theo truyền thống thường được chia gồm 4 phần: Đề,
Thực (hoặc Trạng), Luận, Kết. "Đề" gồm 2 câu đầu trong đó câu
đầu tiên gọi là câu phá đề, câu thứ 2 gọi là câu thừa đề, chuyển
tiếp ý để đi vào phần sau. "Thực" gồm 2 câu tiếp theo, giải
thích rõ ý đầu bài. "Luận" gồm 2 câu tiếp theo nữa, phát triển
rộng ý của đầu bài. "Kết" là 2 câu cuối, kết thúc ý toàn bài,
trong đó câu số 7 là câu "thúc" (hay "chuyển") và câu cuối là
"hợp".
Thơ thất Ngôn Bát Cú có luật lệ gò bó
khó làm nhất nhưng chính điều đó lại được người xưa ưa thích
nhất, thường dùng để bày tỏ tình cảm ý chí, ngâm vịnh, xướng
họa... Và trong tất cả các kỳ thi xưa đều bắt thí sinh phải làm.
Tại quê hương của Đường thi cũng là nơi
mà phong trào tập cổ, sáng tác thơ Đường luật rầm rộ nhất, lý
luận thi pháp thơ Đường luật Trung Quốc không có khái niệm Đề,
Thực, Luận, Kết mà thay bằng khái niệm đầu liên, hàm liên, cảnh
liên, vĩ liên, nói ngắn gọn bằng tổ hợp bốn từ Khởi (khai),
Thừa, Chuyển, Hợp. Tuy nhiên cách phân chia này cũng không khác
gì cách phân Đề, Thực, Luận, Kết về mặt ý nghĩa.
Một quan niệm khác áp dụng cấu trúc
2-4-2 cho bài thơ thất ngôn bát cú. Theo đó quan niệm này đứng ở
góc độ không gian-thời gian nghệ thuật để khảo sát toàn bài dựa
theo logic hai câu đầu và hai câu cuối bài thơ Đường luật thường
yếu tố thời gian chiếm vị trí chủ đạo, còn bốn câu giữa trật tự
không gian là chủ đạo và tác giả dường như dừng lại để quan sát
sự vật.
Cũng cần nhắc đến quan điểm “Cảnh-Tình”
của Kim Thánh Thán khi chia bài thất ngôn bát cú thành hai phần
đều nhau, theo đó bốn câu trên của bài nặng về cảnh và bốn câu
dưới nặng về tình.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu có xu hướng
không cố tìm quy luật chung về bố cục để áp dụng trong hàng loạt
bài thơ mà áp dụng quan điểm nghiên cứu đã có từ thời Minh mạt
Thanh sơ ở Trung Hoa, quan điểm bám sát và tuân thủ cách phân
chia bố cục của từng bài thơ theo mạch cảm xúc của thi nhân biểu
hiện trong bài. Một ví dụ là bài thơ hết sức nổi tiếng Qua
đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan hoàn toàn có thể được phân
tách theo bố cục 1/7, hoặc bài Bạn đến chơi nhà của
Nguyễn Khuyến có thể bố cục 7/1 hoặc 1/6/1.
Một số dạng thơ
Thất ngôn bát cú
Đó là thơ Đường chuẩn luật, gồm có 8
câu, mỗi câu 7 chữ. Hai câu đầu là 2 câu đề (đặt vấn đề
mà bài thơ đó nói tới). Hai câu tiếp theo là hai câu thực
(tả hoặc nói thực về vấn đề đó). Hai câu sau đó là 2 câu luận
(bàn luận về vấn đề đó). Cuối cùng là 2 câu kết (kết luận
vấn đề)
Nếu tách ra từng cặp một thì chúng có
thể thành những cặp câu đối riêng biệt.
Ngoài dạng thơ Đường chuẩn luật là "thất
ngôn bát cú" còn có các biến thể sau:
Thất ngôn tứ tuyệt
Thực chất là một bài "thất ngôn bát cú"
đem bỏ đi bốn câu đầu hoặc bốn câu cuối. Luật bằng trắc và niêm,
vần... vẫn giữ nguyên, có thể bỏ luật đối ở hai câu 3, 4 hoặc 5,
6. Lúc này nó sẽ thành một bài thơ "bốn câu ba vần" mà Nguyễn Du
đã nhắc trong truyện Kiều.
Ví dụ: bài thơ sau của Quách Tấn
- Từ buổi thuyền đưa khách thuận
dằm
- Trông chừng bến cũ biệt mù tăm
- Cảm thương chiếc lá bay theo gió
- Riêng nhớ tình xưa ghé đến thăm
Ngũ ngôn tứ tuyệt
Thực chất là bài thất ngôn tứ tuyệt đem
bỏ đi hai chữ đầu ở mỗi câu; các chữ còn lại vẫn giữ nguyên luật
bằng trắc, niêm và vần.
Ví dụ: từ bài trên mà thành
- Thuyền đưa khách thuận dằm
- Bến cũ biệt mù tăm
- Chiếc lá bay theo gió
- Tình xưa ghé đến thăm
Ngũ ngôn bát cú
Cũng là từ bài thất ngôn bát cú bỏ hai
chữ đầu ở mỗi câu mà thành, luật bằng trắc, niêm và vần ở các
chữ còn lại vẫn giữ nguyên.
Yết hậu
Yết Hậu3
(yết: nghỉ; hậu: sau) là lối thơ có ba câu trên đủ
chữ, còn câu cuối cùng chỉ có một chữ.
Ví dụ: bài Lươn
- Cứ nghĩ rằng mình ngắn,
- Ai ngờ cũng dài đườn.
- Thế mà còn chê trạch:
- Lươn!
-
- Vô Danh