Những bộ phim hay nhất dành cho
Father's Day
Trong dịp Father's Day
vào Chủ nhật thứ 3 trong tháng 6, trang RD.com đã giới thiệu Top
những bộ phim đáng xem nhất dành cho những ông bố trong ngày lễ
nhiều ý nghĩa này.
Parenthood (1989)
Bộ phim đầu tiên nằm
trong danh sách đó là Parenthood, một tác phẩm từng được đề
cử 2 giải Oscar năm 1990 và 3 đề cử Quả cầu vàng cùng năm. Phim nổi
tiếng đến mức còn 2 lần được chuyển thể thành TVSeries năm 1990 và
mới đây nhất là 2009.
Parenthood do
hãng Universal phát hành, từng thu về hơn 126 triệu USD doanh thu -
một con số đáng nể thời điểm những năm 90. Bộ phim gia đình thuộc
thể loại hài với sự tham gia của nam diễn viên hài nổi tiếng Steve
Martin trong vai ông bố - nhân vật chính của phim Gil Buckman, cùng
với một dàn diễn viên khác như Dianne Wiest, Mary Steenburgen, Rick
Moranis, Tom Hulce, Joaquin Phoenix…
Parenthood là
bộ phim được giới phê bình cũng như một thế hệ khán giả hâm mộ đánh
giá rất cao. Câu chuyện trong phim xoay quanh những vấn đề của gia
đình Buckman, bắt đầu với việc Gil Buckman chuẩn bị chào đón đứa con
thứ 4 - đứa con mà anh không mong muốn.
Gil là nhân viên bán
thuốc thần kinh, có một gia đình với 3 đứa con đang đến tuổi ăn -
phá - nghịch, một mặt Gil luôn muốn dành nhiều thời gian cho con
cái, mặt khác lại phải chật vật với công việc với nỗi sợ hãi mình
không kiếm đủ tiền nuôi gia đình… và như vậy Gil chịu sức ép từ cả 2
phía: gia đình và công việc, vấn đề được đưa ra trongParenthood là
Gil sẽ cân bằng cuộc sống của mình như thế nào trước áp lực lớn như
vậy?
Gil Buckman với sự thể
hiện tài tình nhưng không kém phần hài hước điển hình của Steve
Martin trong các phim mà anh tham gia đại diện cho mẫu những ông bố
luôn muốn lo lắng, quán xuyến mọi việc và hết lòng vì gia đình, cố
gắng nuôi sống tổ ám của mình nhưng rồi vô tình tạo ra áp lực đè
nặng lên vai và cuối cùng là không tìm ra cách giải quyết.
Thông điệp của Parenthood đó là dù cho gia đình bạn có nhiều
rắc rối đến đâu thì hãy là một phần trong đó, bậc phụ huynh nào cũng
gặp vấn đề với kĩ năng làm cha mẹ của mình, nhưng rồi những vấp ngã,
kinh nghiệm trong cuộc sống cùng tình yêu dành cho con cái sẽ tự dẫn
dắt chúng ta đến với cái đích cuối cùng. Parenthood do Ron
Howard làm đạo diễn, phần lớn kịch bản phim được dựa trên kinh
nghiệm thực tế của Howard, biên kịch Lowell Ganz và Babaloo Mandel
cùng nhà sản xuất Brian Grazer - những bậc phụ huynh ngoài đời có
tổng cộng tới 14 đứa con.
Kramer vs. Kramer (1979)
Với sự tham gia của 2
ngôi sao gạo cội của điện ảnh Hollywood là Dustin Hoffman và Meryl
Streep, Kramer vs. Kramer được xếp vào một trong những tác
phẩm điện ảnh phản ánh đề tài gia đình, cũng như mối quan hệ giữa
cha mẹ và con cái xuất sắc nhất từ trước cho tới nay.
Dustin Hoffman vào vai
Ted, một người đàn ông tưởng chừng như đang ở trên đỉnh cao khi có
một gia đình êm ấm với cô vợ Joanna (vai diễn của Streep), con trai
Bill, anh nhận được một dự án công việc trong ngành quảng cáo lớn
chưa từng có… nhưng bỗng chốc Ted rơi vào tuyệt vọng khi Joanna bất
ngờ bỏ rơi anh và đứa con trai.
Không gần gũi con cái
nhiều nên khi chỉ còn lại 2 bố con, Ted và Bill rơi vào tình trạng
căng thẳng, không còn thời gian dành cho công việc nên mọi phiền
muộn, tức giận cũng như bất hạnh Ted đều phải gánh chịu, trong khi
Bill không nghe lời vì phải xa mẹ - người gần gũi với cậu bé nhất.
Sau nhiều tháng, mối
quan hệ được cải thiện, hai bố con quen dần với cuộc sống thiếu vắng
bóng dáng người phụ nữ trong gia đình. Cuộc sống của hai người yên
ổn được một năm rưỡi thì Joanna quay lại và kiện Ted ra tòa đòi
quyền nuôi con…
Với sự diễn xuất tuyệt
vời của Dustin Hoffman và Meryl Streep, bộ phim gây xúc động mạnh
cho khán giả bởi đề tài chân thực cũng như những trường đoạn cảm
động giữa 2 bố con Ted, Bill. Kramer vs. Kramer đã phản ánh
luồng tư tưởng xuất hiện suốt những năm 70 về quyền bình đẳng nam
nữ, đặc biệt là nhận thức xã hội về bình quyền giữa cha và mẹ đang
dần thay đổi. Bộ phim đưa đến một cách nhìn nhận về tình phụ tử cũng
quan trọng không kém tình mẫu tử, vai trò của người cha là đặc biệt
quan trọng trong gia đình khi khuynh hướng thời điểm đó vẫn nghiêng
về vai trò của người mẹ nhiều hơn.
Cuộc sống của hai cha con Ted và Bill trong quá trình gần gũi, tìm
hiểu nhau và quá trình Ted giành lại được tình cảm của đứa con trai
Bill luôn là những câu hỏi lớn dành cho các ông bố bà mẹ: cuộc sống
của con cái sẽ bị ảnh hưởng như thế nào nếu bố mẹ chúng li hôn,
người cha sẽ có vai trò ra sao khi trong cả quãng thời gian dài
không dành tình cảm cho con cái, mặt trái của cuộc chiến giành quyền
nuôi con…? Và cuối cùng, vấn đề quan trọng nhất trong Kramer vs.
Kramer vẫn là không gì quý giá và đáng hi sinh hơn là hạnh phúc
của con cái - hạnh phúc của cậu bé Bill.
Bộ phim đại thắng
Oscar với 5 tượng vàng trong số 9 đề cử dành cho các hạng mụcPhim
xuất sắc, Đạo diễn xuất sắc (Robert Benton), Kịch bản
chuyển thể xuất sắc(Robert Benton - dựa trên tiểu thuyết của
Avery Corman), Nam diễn viên chính và Nữ diễn viên phụ
xuất sắc (Hoffman và Streep).
The Pursuit of Happyness (2007)
Là bộ phim thể
loại tâm lí tình cảm có doanh thu cao nhất trong sự nghiệp diễn xuất
của Will Smith, The Pursuit of Happyness là một lựa chọn xứng
đáng trong danh sách phim có đề tài về những ông bố hay nhất.
Đúng như tựa đề của
phim, The Pursuit of Happyness là cuộc hành trình tìm kiếm
hạnh phúc của 2 bố con Chris Gardner và Christopher khi vợ của Chris
bỏ đi. Vốn chật vật với cuộc sống để nuôi sống được gia đình nhỏ bé,
Chris bất ngờ đối mặt với bất hạnh khi vợ anh bỏ đi tìm công việc
khác, để lại đứa con nhỏ Christopher. Mất nhà, hai bố con Chris và
Christopher trở thành 2 kẻ vô gia cư, phải đối mặt với sự khắc
nghiệt của cuộc sống trong những đêm lang thang ở ga tàu điện hay
trú chân trong nhà vệ sinh công cộng…
Vời nền tảng là câu
chuyện có thật về nhân vật Chris Gardner sau này trở thành một trong
những doanh nhân thành đạt nhất trong ngành chứng khoán, Will Smith
tạm thời rũ bỏ hình ảnh của những vai hành động gai góc để hóa thân
vào nhân vật Chris, một ông bố bất hạnh không tiền, không nhà cửa,
không nghề nghiệp nhưng vì đứa con, vì hạnh phúc và vì tương lai của
cả hai đã bằng mọi cố gắng, nỗ lực và tài năng của mình để có tìm
được một công việc.
Quá trình tìm đến hạnh
phúc, đến thành công của hai bố con Chris không phải dễ dàng, Chris
là hình ảnh tượng trưng cho những ông bố có nghị lực phi thường, yêu
con và muốn đạt được mọi thứ, giành lấy mọi cơ hội không chỉ vì bản
thân mà còn cho con cái.
Hạnh phúc không phải
tìm kiếm ở đâu xa mà do chính chúng ta tạo ra, do chính Chris tạo ra
và cuối cùng anh đã tự trả lời được câu hỏi “Điều gì khiến mọi
người hạnh phúc?”. Khi con người tưởng chừng như rơi vào tột
cùng của bất hạnh, của đau khổ mất mát và cùng cực thì thứ còn lại
duy nhất là tình yêu, niềm tin vào cuộc sống và sự tự tin vào bản
thân, không nản lòng trước thất bại - đó chính là hạnh phúc thực sự.
Bộ phim tái hiện lại
San Francisco những năm 80, khi nạn thất nghiệp còn tràn lan và
người da màu còn chưa có vị trí bình đẳng trong xã hội, cuộc hành
trình của hai bố con Chris được ví như bản tuyên ngôn về hạnh phúc.
Bên cạnh Will Smith, diễn xuất của cậu con trai Jaden Smith vào vai
Christopher cũng được giới phê bình khen ngợi hết lời.
Sony và Columbia chỉ
bỏ ra 55 triệu USD cho The Pursuit of Happyness nhưng đã thu
về hơn 300 triệu trên toàn thế giới, phim có 3 đề cử tại giải Quả
cầu vàng và 1 đề cử Oscar cho vai diễn Chris của Will Smith năm
2007.
Mrs. Doubtfire (1993)
Thành công vang dội ở
cả 2 mặt doanh thu và nội dung, bộ phim Mrs. Doubtfire không
chỉ là tiếng cười hài hước về bà giúp việc giả danh mà còn là bài
học đắt giá về tình cảm gia đình, tình cảm cha con.
Daniel Hillard là diễn
viên lồng tiếng cho phim hoạt hình hết lòng vì công việc, dù yêu con
nhưng lại không có thời gian dành cho chúng, dẫn đến việc vợ anh là
Miranda quyết định ly hôn và chỉ cho anh gặp 3 đứa con một tuần một
lần.
Tuyệt vọng vì không
được ở bên con, Daniel quyết định hóa trang thành một bà lão già xọm
nhưng vui tính, nhằm ứng cử vào vị trí quản gia mà Miranda đang
tuyển dụng để chăm lo việc gia đình.
Ở gần lũ trẻ dưới vỏ bọc của bà Doubtfire, Daniel chiếm được tình
cảm của cả 4 mẹ con đặc biệt là lũ trẻ, rắc rối xảy ra khi Miranda
có quan hệ gần gũi với bạn trai mới, và cuối cùng “cái kim trong
bọc” cũng lộ ra…
Mrs. Doubtfire thành
công một phần là nhờ kịch bản độc đáo (chuyển thể từ tác phẩm của
Anne Fine) và phần khác là tài năng diễn xuất có một không hai của
danh hài Robin Williams trong vai ông bố vì muốn chăm con mà có thể
làm mọi việc điên rồ. Thêm nữa khán giả cũng ấn tượng với màn cải
trang đặc sắc để biến Robin thành bà lão già Doubtfire trong phim,
điều này khiến bộ phim nhận được 1 giải Oscar cho Hóa trang xuất
sắc nhất, phim cũng mang về cho tài tử Robin Williams 1 Quả cầu
vàng năm 1994 cho vai diễn trong phim, cùng giải Phim điện ảnh
thể loại hài xuất sắc năm đó.
Cùng với việc mang lại
tiếng cười nhẹ nhàng, hài hước bằng những tình huống trong phim, Mrs.
Doubtfire cũng chỉ ra rằng ai cũng có cơ hội thứ hai để sửa chữa
lỗi lầm. Daniel đã bỏ lỡ nhiều dịp để ở bên con cái, dạy dỗ lũ trẻ
như một người bố bình thường và anh phải trả giá bằng việc chỉ được
gặp con vào mỗi cuối tuần. Việc giả trang cũng cho thấy nỗ lực muốn
bù đắp của Daniel dành cho bọn trẻ những tình cảm mà trước kia anh
chưa làm được thật đáng trân trọng.
Mrs. Doubtfire còn
có sự tham gia của nữ diễn viên từng giành giải Oscar Sally Field
trong vai Miranda và cựu điệp viên 007 Pierce Brosnan vai Stuart -
anh chàng người yêu mới của Miranda. Chỉ tính riêng tại Mỹ phim đã
mang về 219 triệu USD, thị trường nước ngoài là 222 triệu, xếp thứ 2
trong số những phim ăn khách nhất năm 1993.
Finding Nemo (2003)
Đại diện duy nhất
thuộc thể loại phim hoạt hình có mặt trong danh sách này là Finding
Nemo - bộ phim hoạt hình nổi tiếng công chiếu năm 2003 của hãng
Walt Disney kết hợp với Pixar trong vai trò đồng sản xuất.
Nằm trong số những bộ
phim hoạt hình nổi tiếng nhất mọi thời đại của Walt Disney,Finding
Nemo là câu chuyện cảm động của cá hề Marlin trong cuộc hành
trình vượt đại dương xa xôi để tìm cậu con trai Nemo. Bộ phim không
những lấy được cảm tình của khán giả nhỏ tuổi mà còn thu hút một
lượng lớn các khán giả lớn tuổi khác tới rạp.
Marlin và Nemo là 2 bố con nhà cá hề sống tại rặng san hô dưới đại
dương, do một tai nạn từ lúc còn trong “trứng nước” mà Marlin rất sợ
để Nemo vượt ra khỏi tầm kiểm soát của mình. Một ngày vì không nghe
lời bố, Nemo vô tình bị một tàu đánh cá ở Sydney bắt mất. Cùng với
người bạn đồng hành đãng trí nhưng tốt bụng là cá Dory, Marlin cùng
Dory rong ruổi trong chuyến hành trình vượt biển cả bao la để tới
bằng được Sydney nhằm tìm lại Nemo hiện đang bị nhốt trong một bể cá
cảnh.
Finding Nemo là
bộ phim hoạt hình 3D bom tấn của Disney năm 2003, tổng doanh thu của
phim trên thị trường chung lên tới con số hơn 864 triệu USD - biến
nó trở thành sản phẩm ăn khách nhất từ trước tới nay của hãng Pixar
và phim xếp loại G (dành cho mọi lứa tuổi) có doanh thu cao nhất.
Yếu tố tạo nên thành công của Finding Nemo không chỉ nằm ở đồ
họa đẹp mắt, tạo hình các nhân vật ấn tượng, chi tiết cảnh vật sống
động mà còn ở cốt truyện li kì, cảm động và lôi cuốn trẻ em cũng như
các bậc phụ huynh.
Finding Nemo mở
ra một thế giới của các loài sinh vật biển, mà nhân vật trung tâm là
cá hề, loài cá suốt đời chỉ sống cộng sinh với dã quỳ biển, nhưng vì
tình phụ tử vì đứa con trai Nemo mà Marlin - ông bố cá hề kích thước
bé tí ti từng thề sẽ bảo vệ cậu con trai bé bỏng suốt đời đã bất
chấp khó khăn, nguy hiểm rình rập ngoài đại dương xa xôi để đi tìm
con.
Câu chuyện còn là
chuyến phiêu lưu kì thú dưới đại dương, mang đến cho các em nhỏ
những bài học bổ ích về thế giới sinh vật biển, thế giới tự nhiên
rộng lớn mà trên hết là tấm lòng bao la của những người làm cha, mẹ
được nhân cách hóa dưới hình dạng những con vật thân thiện.
Finding Nemo có sự tham gia lồng tiếng của các diễn viên như
Albert Brooks (Marlin), Alexander Gould (Nemo) và Ellen DeGeneres
(Dory). Phim có 4 đề cử Oscar cho Nhạc phim xuất sắc, Biên
tập âm thanh xuất sắc, Kịch bản gốc xuất sắc và mang về 1
tượng vàng cho Phim hoạt hình xuất sắc tại lễ trao giải năm
2004. Năm 2006 Finding Nemo tiếp tục ghi danh vào lịch sử với
danh hiệu DVD bán chạy nhất mọi thời đại (trên 40 triệu bản năm
2006).
Meet the Parents (2000)
Nếu như trong ngày lễ của các bà mẹ bộ phim Monster-in-Law có
thể làm các cô con dâu hãi hùng thì trong ngày lễ của các ông bố, Meet
the Parents cũng có thể khiến các chàng rể tương lai... vã mồ
hôi.
Bộ phim hài hước kể về
anh chàng y tá Greg Focker được mời đến tham dự kì nghỉ cuối tuần
cùng gia đình bố mẹ bạn gái Pam, với ý định sẽ cầu hôn người yêu,
anh chàng tội nghiệp Greg vấp ngay phải "ác mộng của những chàng rể”
là ông bố người yêu Jack Byrnes.
Vốn là một cựu nhân
viên CIA nghỉ hưu, Jack ghét Greg ngay từ đầu và mọi cố gắng để lấy
lòng Jack cũng như mọi thành viên trong gia đình Pam của Greg đều vô
ích thậm chí là phản tác dụng, khiến anh càng bị ghét hơn. Sự việc
lên đến đỉnh điểm khi Greg bị mọi người, bao gồm cả Pam không cho dự
đám cưới của chị gái Pam là Debbie nữa… anh chàng tội nghiệp bị đẩy
ra sân bay trong khi đó ở nhà, ông bố Jack dần nhận ra con gái yêu
anh y tá đến mức nào…
Chắc hẳn anh chàng nào
khi đến nhà người yêu cũng sẽ phải hãi hùng với một ông bố như Jack
trong Meet the Parents: khó tính, dò xét hay nghi ngờ, soi
mói, bảo thủ, hơi gia trưởng… nhưng cuối cùng, khán giả vẫn thông
cảm với Jack bởi mọi việc ông làm đều xuất phát từ tình yêu dành cho
cô con gái cưng Pam bởi ai ở vị trí của Jack cũng sẽ làm như vậy.
Yếu tố hài hước, diễn
xuất hóm hỉnh của các nhân vật cộng thêm kịch bản đơn giản nhưng
mang lại hiệu quả cao giúp Meet the Parents được đánh giá là
bộ phim hài thành công về mọi yếu tố, đặc biệt là yếu tố hài gây
cười không quá gượng ép và thô thiển.
Meet the Parents
là một trong những tác phẩm hài hiếm hoi mà tài tử gạo cội Robert De
Niro tham gia, tác phẩm xếp vị trí thứ 7 trong danh sách Những
phim ăn khách nhất năm 2000, là phim có doanh thu cao nhất trong
tuần đầu công chiếu De Niro từng tham gia. Vào vai chàng trai kém
may mắn Greg là Ben Stiller. Với vai diễn Jack, De Niro có 1 đề cử
Quả cầu vàng năm 2001 (mất về tay George Clooney trong O Brother,
Wher Art Thou?), bài hát A Fool In Love còn được đề cử
Oscar cho Bài hát trong phim hay nhất.
Nối tiếp sự thành công
này, năm 2004 Universal tiếp tục ra mắt phần 2 với tựa đề Meet
the Fockers, lần này không còn là cuộc chạm trán giữa con rể
tương lai và gia đình nhà vợ mà sẽ là cuộc chiến giữa hai nhà thông
gia, phim bổ sung vào dàn diễn viên thêm Dustin Hoffman và Barbra
Streisand (bố mẹ Greg). Meet the Fockers cũng thu về tới hơn
516 triệu USD. Theo thông tin từ dàn diễn viên chính thì có thể phần
3 với tựa đề Little Fockers sẽ ra mắt năm 2011.
Những bộ phim khác
Ngoài những tựa phim
trên, trong danh sách còn có các bộ phim khác như National
Lampoon"s Vacation; Mr. Mom; Father of the Bride; To
Kill a Mockingbird. National Lampoon"s Vacation 1983 là
bộ phim đầu tiên đánh dấu sự ra đời của series về các Vacation với
sự tham gia của Chevy Chase trong vai ông bố Clark Griswold cùng gia
đình của mình, gia đình Griswold "ghi điểm" với khán giả bằng những
chuyến du lịch để đời và đáng nhớ.
Trong khi đó Mr.
Mom sản
xuất năm 1983 lại là câu chuyện về một ông bố trở thành nội trợ
chính trong gia đình vì thua một cuộc cá cược với vợ rằng ai có công
ăn việc làm trước thì người kia sẽ phải ở nhà chăm con, quản lí nhà
cửa. Jack (vai diễn của Michael Keaton) đã phải đánh vật với những
đứa con, với công việc dọn dẹp và bắt đầu học cách làm… nội trợ
trong khi ban đầu anh căm thù, ghét cay ghét đắng công việc này.
Danh hài Steve Martin
tiếp tục góp mặt trong 2 phần bộ phim về đám cưới với đề tài gia
đình đó là Father
of the Bride năm
1991 và phần 2 năm 1995. Lần này Steve vào vai một ông bố giàu có có
cô con gái sắp lấy chồng chỉ sau… 3 tháng quen biết. George Banks -
tên ông bố “tội nghiệp” tuyệt vọng vì phải xa con gái nên tìm mọi
cách nhằm phá đám cưới cho đến khi George nhận ra con gái mình đã
lớn và đã đến lúc phải có cuộc sống riêng của mình. Bộ phim là tác
phẩm làm lại từ cuốn phim cùng tên sản xuất từ những năm 1950, phiên
bản mới có sự tham gia của Steve Martin, Diane Keaton…
Cái tên cuối cùng là To
Kill a Mockingbird -
tác phẩm kinh điển dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên duy nhất nổi
tiếng trong sự nghiệp của nữ văn sĩ Harper Lee, bộ phim là cuộc phản
ánh về sự phân biệt chủng tộc, màu da cùng sự nhận thức sâu sắc về
thế giới, lòng trắc ẩn cũng như phải trái - trắng đen trong xã hội
Mỹ thời những năm 30 của các nhân vật. Phim mang về 3 tượng vàng
Oscar trong số 8 đề cử năm 1963.
Theo TTO
*
Nguồn: Internet (xin cảm ơn tác giả)
*
Người tìm chọn và chia sẻ: KIẾN LƯỢM LẶT (Maryland 16-6-2012)
|