|
Tiệc mừng tuổi hạc
chúc thượng thọ 6 Lão sư thất thập
|
Hic. Cuối tuần
này, Đôi Tình nhân TêTê Cali của Đỗ Nguyễn Gia Trang lại tay trong
tay dung dăng dung dẻ "cưa sừng làm nghé" tiếp tục một chuyến "far
weekend trip" nữa. Trước khi nhấn ga lên đàng, nhị vị còn kịp
ngoái cổ "bán cái" cho đệ tử Phước Kiến Đen, nay còn được giao cái ghế "đẩu"
Ông Từ của THKT Từ đường, một Non-Impossible Mission là chuyển tới
các bậc Tiên chỉ thất thập cổ lai hy một sớ chúc thọ do nhị vị hợp
soạn, cho đệ tử tham gia xơ múi chút đỉnh. Dặn thiệt kỹ là triệt để cấm không được táy máy tay chân tương
vào đó cái mùi "ái tình lục dục" thời Tự Lực Văn đoàn hay không khí
"mơ tiên hão huyền" của Bích Câu Kỳ ngộ, đặc biệt cấm chỉ cái hơi
hám của bọn yêu tinh nhền nhện thời Tây Du ký. Nhị vị phán: "Cô thầy
không thích đâu!". Gọn bâng!
|
|
Đồ nho họ Đỗ vừa về hưu. Đỗ
thường ngồi thiền trên phiến đá cổ bên Động Đình Hồ. Có người nói đó
là lúc Đỗ thả cho hồn mình trôi về miền quá khứ. Kẻ lại bảo chẳng
qua trong lúc phu nhân vẫn còn độ tuổi hành hiệp giang hồ và quý tử
độc tôn cũng phải giang hồ hành hiệp, Đỗ ra đây để trốn cái cô đơn
cụ thể trong nhà. Mặc kệ miệng đời. Sống tới tuổi về hưu rồi, Đỗ đã
quá rành chuyện thế thái nhân tình đó. Chỉ có ai trong chăn mới cảm
được cái nỗi niềm của kẻ về nhà trước! Và thiên hạ mỗi tuần 5 ngày
làm việc vẫn thấy cái bóng Đỗ ngồi đó như thi gan cùng tuế nguyệt!
Một hôm Đỗ đang thiền chợt có một
gã trung niên trong lùm cây bò ra. Gã vòng tay chào cầu tài rồi xưng
danh xưng tánh, “Tiểu nhân họ Kiến, tự là Gu-Gồ-Sợc. Tiểu nhân tuân
lệnh bề trên xin trao lão sư tấm thiệp”. Đỗ kinh ngạc mở thư ra xem
thì thấy vỏn vẹn có hàng chữ chỗ đỏ chỗ xanh, “Nhiêu
ta Tính
vốn ôn
Nhu. Phát
thiệp gọi lên
Kỳ Sơn
dự hội.” (*) Nét bút “run rẩy”
mà trông như… rồng bay. Đỗ đọc xong hốt hoảng la lên, “Đây là lệnh
bài mà… Đi mau”. Chẳng biết cái lệnh bài đó của nhân vật nào mà có
uy lực kinh hồn bạt vía tới mức Đỗ quên béng đi cái thói quen “liếc
xéo về góc bếp nhà mình trước khi làm chuyện gì tiểu-trung-đại sự”.
Đỗ bỏ thiền quày quả theo gã Kiến. Gã đưa Đỗ chui vào bụi cây rồi xô
Đỗ xuống một cái hố sâu. Đỗ hết hồn, nhưng cảm thấy mình bềnh bồng,
lơ lửng như cưỡi mây.
Rớt xuống đáy hố, cảnh vật mở ra,
Đỗ thấy một dinh thự nguy nga mà màu mè chói lọi. Ngoài cổng có treo
bảng “Mạng nhện Kiến Tường Động”. Gã Kiến đến bên cửa cười phá lên
ba tiếng rồi khóc rống lên ba tiếng. Gã giải thích rằng đó là
password của bang. Cửa mở ra, một lão trượng hình dung cổ quái, tóc
dựng đứng như rễ tre, chân đi hai hàng, ho khúng khắng chỉ tay vào
Đỗ nói, “Hoan nghinh quang lâm, hoan nghinh quang lâm, xin nhập
nội.” Đỗ kính cẩn vái chào lão trượng rồi bước vào cổng. Một gã
trung niên khác, mặt trắng nhách, đứng trong sân cúi đầu chào Đỗ,
nói, “Tiểu nhân họ Kiến, tự là Mê-Đi-À-Zôn, là ông từ ở đây, xin
phép được dẫn đường.” Đỗ được Kiến Mê-Đi dẫn vào một thư phòng. Nơi
đó Đỗ thấy có một cái bàn tiệc dài 6 thước và có 6 lão trượng đang
ngồi đợi sẵn. Đỗ kinh hãi nói thầm, “Đây hẳn là những bậc chân nhân
1.000 năm khó kiếm, thật vinh dự cho dòng họ Đỗ nhà ta.” Bỗng lão
trượng ngồi ở đầu bàn lên tiếng, “Khách đã tới, vậy mỗ đây tuyên bố
khai mạc bữa tiệc.”
Đỗ chưng hửng vì không thấy có
cái ghế nào dành cho mình, bèn khúm núm gãi đầu ngồi xuống đất. Một
lão trượng đầu còn chút tóc, nhưng nhuộm màu ngũ sắc như màu con
công, thấy vậy thương hại nói, “Đây là đại hội kỳ lão, chỉ những ai
trên 60 tuổi mới được dự. Tuy lão đệ đủ tuổi dự hội nhưng quan viên
chúng ta đây đều đã 70. Vậy chúng ta được ngồi mâm trên. Lão đệ chưa
tới lúc, thôi tạm ở dưới đó.”
Một lão trượng vỗ tay 3 tiếng.
Tức thì đầu bếp do quản gia Kiến Mê-Đi hướng dẫn bưng ra một cái mâm
đặt trước mặt Đỗ. Trên mâm có một tô phở Dương Tử, một bầu rượu
tiên, và một cái điếu cày tiên. Đỗ liếc nhìn trên bàn các vị chân
nhân chỉ thấy những tách trà. Mê-Đi-À-Zôn biết ý tới bên phụ nhĩ,
“Khách quan cứ tự nhiên dùng bữa. Các vị trưởng thượng trên kia
người thì có tiểu đường, người thì có viêm phế quản, người thì có
tăng xông, họ không dùng những thứ này đâu.” Hiểu ra Đỗ bèn cầm tô
phở húp một phát.
Nhưng Đỗ chưa kịp nuốt thì một
lão trượng mặt đỏ tóc trắng tay cầm bàn toán, hướng về phía Đỗ rung
bàn toán lách tách. Kiến Mê-Đi nói nhỏ, “Tôn ông, tới giờ chúc thọ.”
Đỗ tỉnh ngộ, té ra bọn nhà bếp
gọi mình tới để đọc diễn văn. Đỗ chụp bầu rượu uống một hớp để lấy
can đảm, rồi đứng lên vòng tay hướng về phía bàn trên kính cẩn nói,
“Dạ thưa các vị tiên hiền, hôm nay là tháng Tư, năm thứ nhất của
bang THKT, đời vua Hùng thứ 20. Tiểu nhân đây xin thay mặt toàn bang
khắp 5 châu 4 biển xin kính chúc các vị chân nhân an khang trường
thọ, phước tràn trề như nước Đông Hải, đức cao vời vợi tựa đỉnh Thái
Sơn.”
Ông Mê-Đi-À-Zôn cầm cây đũa gõ
xuống đất một cái cạch ra hiệu. Tức thì đám nhà bếp gõ nồi gõ chảo
cổ võ ầm ĩ.
Các cụ phá lên cười đắc ý. Một cụ
nói, “Nghe được, câu này trích trong tập Lục Vân Tiên.” Một cụ khác
hỏi, “Lục Vân Tiên là cô tiên nào vậy?” Cụ kế bên trả lời, “Lục Vân
Tiên nổi tiếng như cồn mà ngài không biết sao. Đó là một tác phẩm
văn học của bà Đoàn Thị Điểm.” Một cụ khác tiếp lời, “Ngài nhớ lầm
rồi ạ, đó là tác phẩm của ông Hồ Xuân Hương đấy ạ.”
Đỗ đợi cho đám nhà bếp im lặng,
rồi hắng giọng nói tiếp, “Thưa các quan viên, dạ chí phải! Trẻ con
cười bảo rằng các vị đã lẫn. Chúng đâu biết 70 là khởi điểm sụp đổ
của thế giới hình sắc. Các ngài lên đỉnh cao để nhìn con cháu mình
cười đùa xôn xao trong những cánh đồng cỏ phía dưới, với cặp mắt bao
dung. Ở tầng giới siêu thoát đây, sẽ không còn những đám khói cay
che khuất tầm mắt, những gai góc chắn lối chân đi, và tâm chỉ còn
tình yêu thuần khiết. Thế giới sẽ trở nên gần với thiên tính của
lương tri trong những giá trị tuyệt đối của nó. Đó là cái thế giới
của chân thân mà trong đó tất cả những mâu thuẫn đều được hòa giải.
Tiểu nhân tôi với tất cả lòng thành xin mời “Lục Kỳ” trưởng thượng
ly trà chúc mừng tuổi hạc.”
Một cụ hỏi , “Lục Kỳ nghĩa là
sao?” Đỗ đáp, “Dạ thưa Lục Kỳ là sáu họ kỳ diệu. An Nam ta 99% là họ
Nguyễn, nhưng các vị lại gồm họ Đoàn, họ Bùi, họ Lưu, họ Cao, họ Võ,
và họ Nguyễn. Có ai trùng ai nhau đâu, vậy không phải là kỳ diệu
sao.” Cụ tóc rễ tre cười hềnh hệch lại chỉ tay vào Đỗ nói, “Cái kỳ
diệu không hề có bi nhiêu. Chớ chẳng phải tôn ông họ Đỗ, Gu-Gồ họ
Trần, Mê-Đi-À họ Phạm… đó sao? Tất cả cha sinh mẹ đẻ đều khác họ,
nhưng điều kỳ diệu chính là ở chỗ cuối cùng chúng ta đều cùng trở
thành bà con nhà họ Kiến.” Đằng sau cụ bỗng có tiếng rú lên, “Khẩu
phục tâm phục.”
Như cao hứng, cụ tóc xởn “carê”
tiếp tục vung tay, “Như ta đây lệnh về trường thì cứ dạy, tới chừng
cầm lệnh chuyển trường thì cứ đi, không hề chia tay chia chân với
ai, nên chưa hề có chia ly'”.
Cụ trông dáng thư sinh nho nhã
tóc vẫn còn đen nhưng nhức chống chiếc gậy gạc sừng nai cứ thâm trầm
khi thì nghển đầu lên nhìn bạn, lúc lại gục gặc đầu ra chiều đắc ý.
Ngồi cạnh cũng là một lão trượng
lặng lẽ không kém, nhưng toát lên cái phong thái quan phụ mẫu chi
dân, thỉnh thoảng lại cầm ly gõ cồm cộp xuống mặt bàn như quen tay
đóng ấn.
Một cụ dáng to cao như dân xì-po,
trán cũng trờn trợt, không nén nổi xúc động, cứ lắp ba lắp bắp lúc
xổ tiếng Phú-lãng-sa, khi chêm tiếng Huê-kỳ-quốc. Trên má cụ ửng vết
son in dấu 5 ngón tay như thể mới bị ai đó tát yêu, tát quái.
Cụ cao niên nhất bàn lại là người
mới nhập bàn tiệc, khoác tấm áo choàng thêu đầy những con số, ký
hiệu, hình họa. Võ lâm giang hồ đồn rằng có thời cụ nằm dưới trướng
phu nhân của mình.
Đỗ cúi rạp mình chúc mừng từng vị
một trên bàn tiệc. Các lão trượng có vẻ xúc động. Một lão trượng
hình dáng tầm thước, trán trờn trợt, trông có vẻ bụi bặm hồng trần
nhưng lồng ngực trong suốt như thủy tinh. Đỗ thấy rõ trái tim đỏ màu
son phụ nữ đang đập loạn xạ bên trong. Lão cao hứng rút ra một cây
sáo thổi một bài vọng cổ. Nhưng mới thổi tới xuống xề thì đã hụt hơi
thở hổn hển. Kiến Mê-Đi-À bèn vội vàng đập cây đũa nghe cạch một
tiếng. Đám nhà bếp tức thì ra tay đập nồi, đập chảo náo động cả sơn
khê cố gắng khỏa lấp cái cái nỗi niềm hụt hơi của bậc tiên chỉ.
Tiệc tan, Đỗ cáo từ. Các cụ có vẻ
quyến luyến. Cụ trông dáng thư sinh nho nhã móc từ chiếc hồ lô sau
lưng lấy ra một lọ thuốc dúi vào tay Đỗ. Đỗ thấy lọ thuốc tỏa ra mùi
hương, cho là thuốc trường sinh, bèn mở nút tính uống ngay tắp lự.
Cụ già vội chụp lại, phán, “Đây là thuốc xức ngoài da. Nếu uống vào
sợ không qua nổi một con trăng.” Đỗ giật mình nhìn lại lọ thuốc thấy
nhãn hiệu “Thuốc Lác gia truyền chánh gốc Huê-Kỳ, Công ty Căn Nhà
Ngoại Ô Biên Hòa bào chế.” Một cụ khác dắt ra chiếc xe đạp rồi nói,
“Chiếc xe này do vua Hùng thứ 18 để lại, nay ta cho lão đệ mượn mà
về”. Đỗ toan nói lời từ chối, bỗng có người vỗ vai đánh bộp một cái.
Đỗ quay lại thấy một lão trượng mặt trắng quát, “Ta 70 mà chưa có
râu, cái gã này định chơi trội chăng. Để ta vặt râu hắn.” Đỗ hết hồn
nhảy lên xe đạp chạy thục mạng văng cả dép, lột cả dây sên mà không
biết. Về đến Động Đình Hồ thì trời đã gần tối. Đỗ lẩm bẩm, “Ta phải
có mặt ở nhà trước khi phu nhân ta đi làm về.” Nhìn trước nhìn sau
không có ai, Đỗ nhảy tòm xuống hồ lội về phương Tây mất dạng!
ĐỖ NGỌC TRANG -
PHẠM HỒNG PHƯỚC
(Elk Grove 17-4-2010, Saigon
18-4-2010)
--
(*) Ghép tên của 6 thầy “thất
thập”: Đoàn Văn Nhiêu, Bùi Trung Tính, Lưu Văn Nhu, Cao Thành Phát,
Nguyễn Xuân Kỳ và Võ Xuân Sơn.
|
Thầy Nguyễn Xuân Kỳ (1941)
Cụ
trông dáng thư sinh nho nhã tóc vẫn còn đen nhưng nhức chống
chiếc gậy gạc sừng nai cứ thâm trầm khi thì nghển đầu lên
nhìn bạn, lúc lại gục gặc đầu ra chiều đắc ý.
|
Thầy Đoàn Văn Nhiêu (1940)
Ngồi
cạnh cũng là một lão trượng lặng lẽ không kém, nhưng toát
lên cái phong thái quan phụ mẫu chi dân, thỉnh thoảng lại
cầm ly gõ cồm cộp xuống mặt bàn như quen tay đóng ấn.
|
Thầy Lưu Văn Nhu (1938)
Cụ
cao niên nhất bàn lại là người mới nhập bàn tiệc, khoác tấm
áo choàng thêu đầy những con số, ký hiệu, hình họa. Võ lâm
giang hồ đồn rằng có thời cụ nằm dưới trướng phu nhân của
mình.
|
Thầy Cao Thành Phát (1941)
Một
cụ dáng to cao như dân xì-po, trán cũng trờn trợt, không nén
nổi xúc động, cứ lắp ba lắp bắp lúc xổ tiếng Phú-lãng-sa,
khi chêm tiếng Huê-kỳ-quốc. Trên má cụ ửng vết son in dấu 5
ngón tay như thể mới bị ai đó tát yêu, tát quái.
|
Thầy Võ Xuân Sơn (1940)
Như
cao hứng, cụ tóc xởn “carê” tiếp tục vung tay, “Như ta đây
lệnh về trường thì cứ dạy, tới chừng cầm lệnh chuyển trường
thì cứ đi, không hề chia tay chia chân với ai, nên chưa hề
có chia ly'”.
|
Thầy Bùi Trung Tính (1940)
Một lão trượng hình dáng tầm thước,
trán trờn trợt, trông có vẻ bụi bặm hồng trần nhưng lồng
ngực trong suốt như thủy tinh. Đỗ thấy rõ trái tim đỏ màu
son phụ nữ đang đập loạn xạ bên trong. Lão cao hứng rút ra
một cây sáo thổi một bài vọng cổ. Nhưng mới thổi tới xuống
xề thì đã hụt hơi thở hổn hển.
Các vị Tiên hiền được xếp lên
bảng Phong Thần này theo trật tự a-bờ-cờ. |
|