|
CHỮ
"đá" NGHĨA
KIẾN MZ bình "loạn"
|
Đại nhân
Bà con ta, nhất
là từ khi rộ lên
phong trào phim
bộ chưởng Hồng
Kông, dùng cái
danh xưng chữ
Hán này để gọi
các bậc trưởng
thượng, những
người quyền cao,
chức trọng, đáng
tôn kính. Nó hao
hao như người Mỹ
gọi là sir hay
senior vậy mà!
Theo ngữ nghĩa
này thì toàn thể
Gia đình THKT
đều là các đại
nhân, vì đều đã
ở vào cái độ
tuổi mà người
đời phải tôn
kính (...và
chuẩn bị... tôn
thờ).
Nhưng nếu coi
đây là một từ
Hán Việt giao
duyên thì "đại
nhân" còn có
nghĩa là "kẻ
chuyên làm đại".
Mà suy cho cùng
cũng nào có sai.
Phàm thì là mà
rằng các "đại
nhân" quyền cao
chức trọng
thường dễ lộng
quyền tự cho
mình có cái
quyền "làm đại".
Vì lẽ đó,
1. Khi được ai
đó gọi là "đại
nhân", ta chớ tự
đắc, coi chừng
mình bị hắn
"chửi" là "kẻ
chuyên làm đại,
làm bậy".
2. Khi được xưng
tụng là "đại
nhân" theo nghĩa
tích cực, ta
phải tự dặn lòng
mình rằng: hãy
luôn cẩn trọng,
đừng có "làm
đại".
Đại nhân còn có nghĩa là người bự, xêm xêm với từ "fat man" của tiếng Anh. Đây là những người mà "vòng bụng dài ra, vòng đời ngắn lại", khách hàng ruột của các hãng bán thực phẩm "diet".
Nguồn minh họa: Internet.
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
Giả đò
Đò dọc là đò
chạy dọc theo
sông, từ địa
phương này tới
địa phương khác.
Thí dụ ngày xưa
dân THKT ngồi
tắc ráng chạy từ
Cai Lậy vô Mộc
Hóa.
Đò ngang là đò
chở khách từ bờ
bên này qua bờ
bên kia sông.
Thí dụ ngày xưa
đi đò dưới chân
cầu Cá Rô để từ
thị xã Mộc Hóa
qua xã Bình
Hiệp.
Gọi đò là đứng
trên một bờ sông
cất tiếng gọi đò
đưa mình qua
sông. (Nhưng ra
Huế, đứng trên
bờ sông Hương mà
"gọi đò" thì có
khi không phải
để qua sông mà
là ... ra giữa
sông!).
Nhưng giả đò
thì hỗng phải là
đò giả. Nó lại
có nghĩa là giả
bộ, làm bộ.
Hãy nghe bà Tám
kêu thằng con:
"Mày giả đò qua
nhà cô Chín mượn
cái phảng để coi
tía mày đang mần
cái giống gì ở
nhà cỗ mà hễ
xổng một cái là
tót ngay qua
bển."
Tội nghiệp thầy
Ngô Nguyên soái,
chuyên gia gọi
đò của THKT.
Thầy đã thắc
thỏm, khắc
khoải, thống
thiết khan cả
tiếng, rát cả
họng gọi đò hết
sớm lại chiều mà
cô lái đò năm
xưa cứ "giả đò"
không nghe!
Đò ngang, đò dọc
gọi đò
Trách sao cô lái
giả đò không
nghe...
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
Răng khểnh
Răng khểnh là
chiếc răng mọc
lệch, nhô lên
khỏi hàng ngũ.
Nếu nó chỉ nhô
lên vừa phải và
nằm ở vị trí đắc
địa trông hay
hay đáo để thì
có duyên và được
gọi là răng
khểnh. Còn nếu
ngược lại, nó bị
gọi là răng
nanh.
Đã có những thi
sĩ, nhạc sĩ, nhà
văn tốn giấy mực
cho chiếc răng
khểnh. Giàng ơi,
hễ mỗi lần nghe
“bác” Elvis
Phương hay “chú”
Duy Quang “cưa
sừng làm nghé”
hát bài “Cô bé
có chiếc răng
khểnh”, tôi nổi
gai ốc cùng
người. Bởi “bác”
ấy, “chú” ấy gan
hơn tôi, dám hát
cùng trời cuối
đất trong khi
tôi chỉ dám ư hử
trong cổ họng
những lời của
nhạc sĩ Nguyễn
Ngọc Thiện rằng:
“Này cô bé có
chiếc răng khểnh
Sao thừa một cái
chắc để làm
duyên
Vội vàng chi mà
sao cô không
biết
Để lại tôi năm
tháng nhớ nhung
hoài ....”
Nhưng kinh
nghiệm cho thấy,
răng khểnh chỉ
có duyên khi nó
ngự trong khuôn
miệng của người
mà ta yêu
thương. Còn nếu
không, chiếc
răng mọc vô trật
tự đó chỉ làm
cho cái "bản mặt
khó ưa thêm đáng
ghét"! Trong
trường hợp đó,
thiên hạ gọi là
răng "lòi sỉ".
Ảnh chỉ mang ý
nghĩa minh họa
cho một chiếc
răng khểnh rất
duyên, không hề
có liên can gì
tới chiếc "răng
khểnh nghiệp
chướng" của thầy
Ngô Nguyên soái.
Tiếng Anh gọi
răng khểnh là
irregular tooth,
chỉ rõ là thứ vô
trật tự, bất quy
tắc. Mà trên đời
này, cái gì bất
quy tắc thì tới
99% là đáng ghét
rồi. Thí dụ, học
ngoại ngữ, ai
cũng khiếp sợ ba
cái động từ bất
quy tắc
(irregular
verb), danh từ
bất quy tắc,...
Có lẽ chỉ có 1
thứ bất quy tắc
duy nhất đáng
yêu, chính là
việc chia cái
động từ... yêu.
Cái sự chia động
từ yêu thì chẳng
ai giống ai,
không tuân theo
một quy tắc nào
hết. Tới mức ông
hoàng thi ca
lãng mạn Xuân
Diệu còn phải
thốt lên "Làm
sao định nghĩa
được tình yêu.
Có nghĩa gì đâu
một... cái khều
(xin lỗi, buổi
chiều)".
Xét về phương
diện nha khoa,
răng khểnh là kẻ
thù số 1 của các
nha sĩ. Nó bị
quy trách nhiệm
làm "ảnh
hưởng xấu tới vệ
sinh răng miệng".
(Cái này có lẽ
cần kiểm chứng,
vì tác giả bài
hát "Cô bé có
chiếc răng
khểnh" là một
nha sĩ đó
nghen.)
Xét về mặt tình
nghĩa keo sơn
của Gia đình
THKT, răng khểnh
gây tổn thương
tinh thần và tổn
hại vật chất cho
thầy Ngô Nguyên
soái. Qua chứng
cứ do thầy Ngô
Bảo Toàn không
đánh mà khai,
răng khểnh đích
thị là răng
nanh. Mà răng
nanh thì của
loài thú ăn thịt
sống. Bằng chứng
là chiếc răng
khểnh năm xưa đã
xơi tái hàng
chục con heo
(heo đất cũng là
heo) của thầy
Ngô nhà mình!
Tội nghiệp ông
thầy, không thể
nào mập ra nổi
chỉ vì 40 năm
nay cứ phải hì
hục "Bắc thang
lên hỏi ông
Trời,... (tự ý
đục bỏ câu
bát)".
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
Đa tạ
Khi cảm ơn nhau một cách trang trọng, người ta thường dùng chữ “Đa tạ!”. Đó là một từ Hán Việt, mà “đa” là nhiều, “tạ” là cảm ơn. Vậy “đa tạ” là “cảm ơn nhiều lắm”. Nó tương tự như trong tiếng Anh, ta nói: “Thank you very much”.
Nhưng cái mà, Kiến MZ là người Việt gốc… tràm. “Tạ” được người Việt dùng để chỉ trọng lượng “100kg”. Bởi vậy, trong bụng vẫn khoái “đa tấn” hơn “đa tạ”.
Mổ xẻ cái từ “đa tạ”, Kiến MZ ngộ ra rằng: phải chăng “đa tạ” xuất phát từ một thực tế cuộc sống là:
Cám ơn phải có cái chi
Cám ơn suông có khác gì... cám heo!
Bởi hai tiếng “cảm ơn” bằng lời nói nhẹ tựa bông gòn, nên biết nói bao nhiêu câu cho nặng đủ một tạ, huống chi tới “nhiều tạ”, người ta bèn nghĩ cách quy đổi tiếng “cảm ơn” thành vật chất có trọng lượng. Cái đó gọi là “quà cáp”. Vì lẽ đó, bây giờ, người ta thường quen cảm ơn một cách rất “nặng tay”. Mức độ của sự “cảm ơn” được đo và tỷ lệ thuận với trọng lượng của quà cáp. Rồi theo sự phát triển của mức sống, cái khái niệm “trọng lượng” và “nặng tay” được hiểu với nghĩa “giá trị”. Tới lúc này, người cảm ơn không gói quà cáp bằng giấy bông giấy hoa nữa mà bằng những chiếc phong bì. “Trọng lượng” của chiếc phong bì đó được định lượng bằng “tổng giá trị thị trường” của những gì chứa trong đó, chớ không chỉ phụ thuộc vào độ dày mỏng.
Minh họa: Internet.
Kiến MZ lòng dặn lòng chớ bao giờ để mình đem lòng mê cái sự "đa tạ". Kiến MZ chỉ bày tỏ với người giúp mình, làm ơn cho mình những lời "cảm ơn" từ tận đáy tim mình.
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
Sáng kiến
Nguồn minh họa: Internet.
Người ta dùng từ
“sáng kiến” để
chỉ ý tưởng mới,
nhất là để giải
quyết một vấn đề
gì đó. Nhưng vì
sao lại là sáng
kiến, chứ không
là “trưa kiến”,
“tối kiến”?
Cách dùng từ
“sáng kiến” này
có luận cứ khoa
học rõ ràng và
vững chắc. Trước
nay các nhà
nghiên cứu đều
nhận ra rằng:
sau một đêm được
nghỉ ngơi và nạp
lại năng lượng,
bộ não con người
sáng suốt và
minh mẫn nhất là
vào buổi sáng.
Vì thế, cũng chỉ
có thể là sáng
suốt chứ không
có trưa suốt,
tối suốt. Xin mở
ngoặc nói thêm:
“trưa suốt” là
chỉ người trưa
nào cũng làm một
giấc thẳng cẳng,
còn “tối suốt”
là chỉ kẻ tối
nào cũng la cà
nhậu nhẹt.
“Sáng kiến” còn
được viết tắt
bởi cụm từ “sự
SÁNG suốt của
dân KIẾN Tường”.
Có nghĩa là bà
con THKT mình ai
cũng có một bụng
đầy sáng kiến.
Mức độ thế nào
chỉ tùy thuộc
vào đêm hôm
trước ngủ nhiều
hay ít, ngủ ngon
hay không ngon.
Xét về ngôn ngữ
học Hán – Việt,
“sáng kiến”
(buổi sáng gặp
nhau) là một
thói quen đã trở
thành thuộc tính
của Gia đình
THKT kể từ hạ
tuần tháng
3-2010. Buổi
sáng thức dậy,
vừa nhâm nhi cà
phê hay nhẩm xà,
các thành viên
THKT thường vào
Web THKT để gặp
nhau và coi có
gì mới không.
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
Đồng sàng dị mộng
Nguồn minh họa: Internet.
Nói theo kiểu bình dân học vụ, “đồng sàng dị mộng” có nghĩa là ngủ chung mà mơ hỗng giống nhau.
Wow, chuyện chính xác như 2 cộng 2 là 4. Từ hồi cha sinh mẹ đẻ tới giờ, Kiến MZ chỉ biết có “ngủ chung” chớ ngơ thấy ai nói là “mơ chung”.
Thiệt ra, “đồng sàng dị mộng” là để chỉ tình trạng sống chung, làm chung mà không đồng quan điểm, bất đồng với nhau, chẳng hề có được tiếng nói chung. Nó là nguyên nhân và cũng là hệ lụy của cái kết tan đàn xẻ nghé.
“Đồng sàng dị mộng” vì thế không giống như “ông nói gà, bà nói vịt” – vốn chỉ ở mức độ hiểu lầm nhau mà thôi. “Đồng sàng dị mộng” là bản chất, còn “ông nói gà, bà nói vịt” chỉ là hiệh tượng.
Ngạn ngữ phương Tây nói rằng: hai người yêu nhau phải cùng nhìn về một hướng. Chớ cùng sống chung mái nhà ở Tân An mà ông thì ra cửa sau nhóng cổ ngó về Mộc Hóa, bà thì đứng cửa trước dõi mắt nhìn về Saigon thì sớm muộn gì cái nhà đó cũng bị cắt làm đôi. Hic, chỉ cửa trước, cửa sau mà sao nó nghìn trùng xa cách, không giống như người yêu nhau thì hai bờ đại dương vẫn cứ “chuyện nhỏ như con thỏ”.
Kiến MZ còn tìm thấy ở câu “đồng sàng dị mộng” một ý nghĩa khác. Nếu dịch từ Hán Nôm sang tiếng Việt, nó có nghĩa là “nằm ngủ trên chiếc giường bằng đồng dễ gặp ác mộng kinh dị”. Hỗng tin thì cứ thử coi
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
Cẩn thận
Nguồn minh họa: Internet.
Cẩn thận. Đó là một trong những thuộc tính mà con người phải sống chung với nó ngay từ khi mới khóc oe oe cho tới khi đã “về nơi xa vắng”. Ta nhắc người và người nhắc ta. Ta cẩn thận cho mình và cẩn thận cho người.
Hồi mới lọt lòng mẹ, bà mụ mà không cẩn thận thì ta nhẹ thì rớt cái ạch, nặng thì xi-cà-que cả đời. Vài tháng sau, không cẩn thận thì ta lọt xuống sàn nhà. Biết lăn, biết bò, biết ngồi, biết đi,… nhất nhất ta đều phải cẩn thận. Rồi đi học từ nhà trẻ, mẫu giáo cho tới đại học, trên đại học, ta vẫn phải luôn cẩn thận. Tới khi đi mần lại càng phải cẩn thận hơn trong đối nhân xử thế, kiên trì giữ… job. Ngay cả khi biết yêu ai đó, ta cũng phải cẩn thận kẻo con tim nó bị lủng như… rổ thưa. Về hưu rồi càng phải cẩn thận hơn. Ở cái tuổi năm bó, sáu bó, cái tấm thân đã rệu rã rồi- cho dù cả đời có “xài” ít thì theo quy luật đào thải, máy móc cũng bắt đầu rơ. Mắt mờ dần, xương cốt lỏng lẻo, phản xạ kém,… không cẩn thận thì khổ thân mình thì ít, báo hại con cháu thì nhiều. Thậm chí khi xuất dương theo diện đoàn tụ ông bà, nếu mấy anh nhà đòn không cẩn thận, ta khó lòng mà an giấc ngàn thu, tới mí mép rồi mà vẫn còn bị sụp lỗ chân trâu.
Suy cho cùng, cẩn thận là một đức tính và một cách sống cực kỳ tốt. Biết cẩn thận cho mình cho thấy ta là một người chu đáo. Biết cẩn thận cho người khác chứng tỏ ta là một người có tâm.
Nhưng đó là suy ngẫm theo mô thức chung. Còn soi bằng cái kính chiếu yêu “chữ đá nghĩa”, Kiến MZ phát hiện ra chữ “cẩn thận” cũng có những góc cạnh “trật bản lề” mà không kém phần “thích hợp”.
1. Cẩn thận vốn hàm ý quý giá bởi nó còn là một từ Hán để chỉ… quả thận được cẩn. Từ cổ chí kim, ở Đông hay Tây, mấy cái món được cẩn ngọc ngà, cẩn hột xoàn, cẩn vàng bạc đều quý giá.
2. Cẩn thận là một cách nói tự trào của những người thận có… sạn. Thận người ta thì cẩn vàng, cẩn ngọc, còn thận mình bị cẩn mấy cái cục… sạn!
3. Cẩn thận cũng là một lời cảnh báo ta phải biết phòng tránh bệnh tật cho hai cái quả thận của mình. Uống nhiều nước, vui sống điều độ, ăn uống lành mạnh, thường xuyên vận động,… là những thứ rất tốt cho thận.
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
Nhớ thương
Nguồn minh họa: Internet.
Nhớ thương
là để xác định
cái sự nhớ cồn
cào ruột gan này
là do “thương
quá là thương”
mà ra. Tiếng Anh
thường dùng động
từ “miss”. Nó
phân biệt với
“nhớ” (remember)
là một trạng
thái của bộ não
để nhắc nhớ, nhớ
lại, thí dụ như
“nhớ ai để đòi
nợ”.
Nhưng nhớ thương
cũng có năm bảy
đường. Nhớ
thương… yêu thì
thật ấm lòng,
còn nhớ thương…
hại thì nhói con
tim.
Quả là ba mẹ
thật sáng suốt
và nhìn xa trông
rộng khi đặt tên
con gái rượu là
Nhớ Thương. Nó
hàm nghĩa “nhớ
một người tên
Thương” hay nhắc
nhở “nhớ thương
nó với nhé”.
Học Việt văn
Trung học, mình
từng bình giảng
bài ca dao mà
nhà phê bình
Hoài Thanh đánh
giá là “hay nhất
Việt Nam”. Nó
như vầy:
Khăn thương
nhớ ai
Khăn rơi xuống
đất
Khăn thương nhớ
ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ
ai
Khăn chùi nước
mắt
Đèn thương nhớ
ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ
ai
Mắt ngủ không
yên
Đêm qua em những
lo phiền
Lo vì một nỗi
không yên một
bề.
(Xin
click vào đây
để nghe bài hát
Thương ai,
nhớ ai do
nhạc sĩ Phạm Duy
phát triển từ
bài ca dao này).
Kiến MZ có người
anh em Kiến Đen
hồi THKT từng
trồng cây tràm
(ở KT hiếm có
cây si) với một
nàng tên Nhung ở
nhà thờ Mộc Hóa.
Gã bèn hì hục
mần bản nhạc có
tên là Nhớ
nhung, kết
bằng câu xanh
dờn: “Nhớ
nhung nhiều,
trọn đời anh nhớ
nhung”. Kiến
Đen tính là khi
gặp nàng Nhung
sẽ “khè” rằng:
“Anh nhớ em tới
mức làm nhạc nhớ
em nè!” -
(Nhung, viết
hoa). Còn với
mấy nàng có tên
không hợp để mần
thơ, mần nhạc
thì gã dụ khị:
“Anh nhớ nhung
em quá chừng nên
mần nhạc nhớ
nhung nè!” –
(nhung, viết
thường). Hỗng
biết từ sáng tới
giờ gã đang mần
cái gì mà gọi
điện không nghe
máy!
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
Lãng mạn
Nguồn minh họa: Internet.
Lãng mạn được ghép bởi hai chữ Hán: “lãng” (sóng nước) và “mạn” (đầy tràn). Hiểu theo nghĩa chiết tự, lãng mạn là sóng tràn bờ, chỉ một sự phóng túng, tự do, vượt lên trên mọi ràng buộc.
Thật khó mà giải thích rõ ràng lãng mạn là gì, bởi lẽ nó rất đa dạng và mỗi người có thể giải thích một cách khác nhau tùy theo nhu cầu và cách hiểu của mình.
Lãng mạn là một trạng thái tâm lý giữa mộng và thực, nó cũng hàm nghĩa là trữ tình với cung bậc mộng mơ, nên thơ.
Hầu như ai yêu nhau cũng muốn tình yêu của mình được ướp bằng gia vị lãng mạn. Lãng mạn tạo thêm hương vị cho tình yêu, chấp cánh cho tình yêu bay bổng, tạo ra nhiều kỷ niệm cho hai người mà họ sẽ nhớ mãi cho tới khi hết yêu nổi nhau.
Nhưng lãng mạn cũng phải có nghệ thuật và những giới hạn của nó. Nếu lãng mạn mà vô duyên sẽ thành “lãng nhách”, mà có ý đồ xấu sẽ thành “lãng gian”; còn nếu quá trớn dễ thành “lãng mạng” (lãng phí tính mạng).
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
Đào hoa
Nguồn minh họa: Internet.
Có người biểu "đào hoa" là cách đọc theo tiếng Hán của "hoa đào", giống như "mai hoa" là "hoa mai" vậy mà.
Nhưng theo ngôn ngữ thường ngày, đào hoa được dùng để chỉ những đấng liền ông có nhiều hơn một người tình. Với một mức độ nào đó, "đào hoa" là cách nói văn chương, lịch sự của cụm từ "ba lăng nhăng", hay bình dân hơn là "dê xồm", hoặc thô tục hơn là "già không bỏ, nhỏ không tha".
Còn để chỉ những chàng trai lịch thiệp, phong nhã được nhiều cô gái rung động con tim, người ta dùng từ "hào hoa".
Phải công nhận rằng ông bà mình dùng chữ "đào hoa" quá đã. Nó chính xác cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. "Đào hoa" là "đào" cây "hoa" lên mang về nhà mình xài. Đào một cây thì chẳng ai nói, còn mấy ông "đào" tá lả cây "hoa" quả là tham quá chừng!
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
Hậu mạt chược là
mạt trượt
Nguồn minh họa: Internet.
Thầy Đỗ Hiền
triết vừa tìm
lại được bạn
xưa, thầy Trịnh
Đình Loạt, sau
42 năm xa nhau,
đã vội chuyển
cho Kiến MZ thắc
mắc của nhân vật
Người Ngây Thơ
rằng: Xin cho
hỏi chơi mạt
chược là chơi
cái gì? Có phải
nguyên văn tiếng
Nam bộ là "mạt
trượt"? Chơi bài
kiểu gì mà một
bên bị trượt,
một bên bị mạt,
thì... I dunno
man - Người ngây
thơ.
Thú thiệt là
trong Tứ đổ
tường, mỗi thứ
Kiến MZ chỉ dính
có một nửa (xách
chứ không hút,
cờ chứ không
bạc, chè chứ
không rượu, gái
chứ không trai),
nên cái vụ này
nằm ngoài vòng
"đá" của Kiến
MZ. Đành phải
trổ tài sục sạo
thôi.
Mạt chược là một
môn chơi cờ có
nguồn gốc Trung
Hoa. Mạt chược
là từ Hán Việt
kép, được phiên
âm theo tiếng
Quảng Đông
"Ma-Tước" (con
chim sẻ). Còn
phiên âm theo
tiếng Phổ thông
(Quan Thoại) là
"Ma-Gioong", vì
thế trong tiếng
Anh, mạt chuợc
được dịch là
Mahjong. Sở dĩ
có tên mạt chược
là vì con
bài thứ nhất của
bộ bài, tức con
Nhất Sách, có ký
hiệu là con chim
sẻ.
Quân cờ mạt
chược na ná như
domino của
phương Tây. Bộ
bài mạt chược
của người Hoa
chỉ có 144 quân.
Người Việt "giàu
tính sáng tạo"
bổ sung thêm,
lên tới 160 quân
và thậm chí còn
hơn thế nữa. 4
hay 6 người
chơi. Mạt chược
được chơi trên
một chiếc bàn
vuông. Chơi mạt
chược được gọi
là xoa mạt
chược. (Xin
click vào đây
để tìm hiểu thêm
về mạt chược.)
Do hậu quả của
mạt chược mà
người ta đọc
trại nó thành
mạt trượt.
Đam mê mạt chược
cầm bằng là sẽ
"mạt rệp" và
"trượt trớt
lớt". Cũng như
mọi loại cờ bạc
khác, mạt chược
được "thằng Bần"
gọi là bác (cờ
bạc là bác thằng
bần). Và suy ra,
không phải chỉ
có mạt chược, mà
các món cờ bạc
đều có hậu quả
là "mạt trượt".
Hy vọng Người
Ngây Thơ chỉ hỏi
cho thỏa óc tò
mò, chớ đừng nên
dựa thế gần gũi
như hình và bóng
với thầy Đỗ Hiền
triết mà rủ rê
thầy Đỗ Xanh, cô
Nước Biếc, thầy
Loạt và phu nhân
gầy một bàn mạt
chược nhé. Hồi
xưa họ dạy chung
trường THKT, nay
lại là láng
giềng của nhau
nơi xứ người,
cũng đủ một bàn
mạt chược rồi
đó. Báo hại từ
rày thầy Đỗ tót
ra Động Đình Hồ
không phải để
thiền mà là để
nghiền ngẫm nước
cờ xoa mạt chược
thì... thiện
tai! thiện tai!
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
Lì xì
Nguồn minh họa: Internet.
Lì xì là một trong những tập tục (tốt xấu thì hạ hồi phân giải) của Năm mới ở một số nền văn hóa châu Á.
Đó là một phong bao màu đỏ (red envelope), được gọi là hóngbāo trong tiếng Phổ thông, Ang Pao trong tiếng Min Nan, Lai See trong tiếng Quảng Đông, Sae Bae Don (세뱃돈/歲拜돈) trong tiếng Triều Tiên,…
Theo Bách khoa Từ điển mở Wikipedia, gốc gác của lì xí có lẽ từ thời nhà Thanh ở Trung Hoa. Hồi đó, người già có tập tục dùng một sợi chỉ đỏ xỏ những đồng tiền kim loại gọi là yāsuì qián ( 壓歲錢 hay 压岁钱), có nghĩa là “tiền xua đuổi tà ma”, với niềm tin rằng nó sẽ giúp người già tránh được bệnh tật và cái chết. Sau này, khi ngành in phát triển, người ta dùng các phong giấy màu đỏ để đựng tiền thay cho sợi chỉ đỏ xỏ tiền.
Số tiền chứa trong bao lì xì luôn là một con số chẵn, tức số hên, đặc biệt là những số mà âm tiếng Hoa đọc trại lên có nghĩa là tốt đẹp, sung túc như 88, 168,… Nhưng người ta kị các số 4 (như 40, 400, 444,…) vì trong tiếng Hoa, số 4 có âm là “tứ”, tương tự như “tử” (chết).
Lì xì chủ yếu là cho trẻ nhỏ mang ý nghĩa lấy hên đầu năm mới.
Nhưng người lớn sau này biến tướng lì xì thành một dạng trả ơn, cống nạp, hối lộ,… Lì xì cũng không phải là từ người lớn hay bậc bề trên tặng cho trẻ em hay cấp dưới, mà thường là của cấp dưới biếu xén cấp trên hay người mà mình nhờ vả. Và nó được ứng dụng mọi lúc, không phải chỉ có trong dịp tết nhất.
Đó là cách cắt nghĩa theo bài bản. Còn xét dưới góc “đá nghĩa”, lì xì ngay trong bản thân tên gọi đã thể hiện thuộc tính của tập tục này. Đó là người cho thì “lầm LÌ mà XÌ tiền ra”, còn người nhận thì phải “làm mặt LÌ lợm để người ta chịu XÌ tiền ra”.
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
Ôn cố tri tân
Nguồn minh họa: Internet.
Ôn cố tri tân là
một thành ngữ
Hán Việt có
nghĩa là ôn lại
chuyện cũ để
biết làm chuyện
mới. Nói cho gọn
là "rút kinh
nghiệm" đó mà.
Vào mỗi cuối
năm, từng tập
thể, từng cá
nhân có tập tục
tốt đẹp là tổng
kết lại một năm
qua và đề ra kế
hoạch cho năm
mới. Và năm mới
chỉ có thể thành
công dựa trên
những nền tảng
(cả những thành
quả lẫn những
kinh nghiệm) của
năm cũ.
Có điều hỗng
giống ai là dịp
cuối năm đầu
tiên kết nối lại
được với nhau,
bà con Gia đình
THKT mình lại
không ôn cố tri
tân như thiên hạ
mà hè nhau đi
vọng cố nhân.
Chẳng lẽ phiên
bản 2010 ôn cố
tri tân của THKT
là "ôn cố nhân,
tri tân nhân"?
Thiệt tình, ai
chẳng có cố nhân
để nhớ. Chí ít
cũng một người.
Đó là chưa kể
các bậc "nguyên
soái tình
trường" có danh
sách cố nhân dài
sọc như sớ Táo
quân: A Lìn,
sà-rông, răng
khểnh, môi
vều,... chỉ nghe
liệt kê thôi
cũng biết cuộc
đời ốm o triền
miên. Chỉ có kẻ
bạc tình, có
trăng quên đèn
mới không nhớ cố
nhân. Nhưng vọng
thì cũng có ba
bảy đường vọng.
Vọng sao cho vui
cửa, êm nhà mới
đáng là THKT
chân nhân! Chữ
"vọng" còn cặp
kè với chữ
"tưởng" thành
"vọng tưởng"
những chuyện hão
huyền, viễn
vông. Bởi vậy
mới cần tới câu:
Cố nhân là
của ngày xưa
Vọng thì cứ
vọng, nhưng chừa
tưởng ra!
Thôi thì hãy làm
theo cái nghĩa
tích cực của "ôn
cố nhân, tri tân
nhân" là rút
kinh nghiệm (ôn)
với người xưa mà
biết (tri) xử
sao cho tốt đẹp
với người nay!
Gia đình THKT
mình chỉ toàn là
những hảo hán,
những anh thư
giàu tình cảm và
tình nghĩa, bởi
nếu thiếu hai
cái chữ "tình"
này thì chúng ta
đâu thể xúm xít
quây quần bên
nhau, bất chấp
không gian và
thời gian, như
thế này!
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
Ăn
Một cuộc thi ăn. Nguồn minh họa: Internet.
Thầy Đỗ Xanh ở Elk Grove mới chuyển cho Kiến MZ một thắc mắc đầy cắc cớ mới của Người Ngây Thơ. “Không hỏi về ý nghĩa của từ ngữ mà hỏi về tâm lý được không? Số là ai cũng biết chữ "ăn" nghĩa là ăn. Nhưng tại sao người ta lại nói là: ăn ảnh, ăn tiền, ăn mảnh, ăn cái khỉ mốc, ăn bẩn... và còn nhiều nữa?”
Có lẽ cái ngữ cảnh của cái động từ “ăn” này nó same same với cái cụm từ “Ngây thơ vô số tội”.
Hình như ngoại trừ cái thuật ngữ “ăn ảnh” (chụp ảnh lên hình rất đẹp, mà tiếng Mỹ bồi gọi là “eat photos”, tiếng Pháp con sen là “manger les photo”) ra, thì mấy cái từ “ăn” kia hàm ý tiêu cực, có nghĩa xấu. Riêng “ăn tiền” thì thuộc loại “pêđê”, vì có cả nghĩa tốt (cái lọ hoa này thiệt là ăn tiền) lẫn nghĩa xấu (làm cái gì hắn cũng muốn ăn tiền).
Động từ “ăn” trong mấy cái cụm từ xấu xí này chỉ có nghĩa bóng, dùng để chỉ cái hành động vơ vét, tư lợi, tư túi,… với cái ý nghĩa chung “ăn trên đầu trên cổ thiên hạ” (như “ăn mảnh”, “ăn bẩn”,…) hay “bị thiệt thòi” và “bị gánh chịu” (như “ăn cái khỉ mốc”, “ăn cái giải gì”, “ăn đòn”,...). Nó còn có một biến cách là “nuốt”.
“Ăn” cũng còn được xài trong những hành động bạo lực như “ăn đòn”, “ăn tát”, “ăn đá”,...
Ngay cả trong thành ngữ tục ngữ cũng có những câu như: “thợ may ăn vải, thợ vẽ ăn hồ”.
Để thể hiện sự bất bình, phản đối của người bị buộc phải cho “ăn”, người ta thường dằn dỗi: “ăn dộng gì thì ăn dộng đi”.
Bởi vậy mới có thơ rằng:
Ăn thì ba bảy đường ăn,
Ta cười, kẻ mếu thì ăn giống gì?
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
Độc thân
Nguồn minh họa: Internet.
Vì sao độc thân xưa nay không hề là một “sự lựa chọn tất yếu” của bất cứ giống loài nào? Vì sao người bình thường nói chung là hỗng khoái sống độc thân?
Độc thân là từ Hán Việt để chỉ người sống một thân một mình, sống mình ên, không phải là cô độc, mà là hỗng chịu lấy vợ, lấy chồng. Người Mỹ gọi là “single” (nó khác với “alone” có nghĩa là sống một mình).
Độc thân có thể là một sự lựa chọn cá nhân của ai đó mà ta cần tôn trọng.
Nhưng độc thân cũng có ba bảy đường.
“Độc thân một mình” là độc thân chánh hiệu con nai vàng.
“Độc thân nhiều mình” là kẻ có họ hàng với gã Don Juan.
Độc thân là hậu quả của việc hồi còn “mơn mởn xuân thì” mình làm “cao giá” (có khi biện minh rằng “cao số”).
Độc thân là bởi “ế độ”, đợi tới già háp mà hỗng có ai chịu rước!
Bên cạnh đó, nhiều người hỗng khoái độc thân bởi… tự ái. Độc thân trong tiếng Hán còn có nghĩa là “con khỉ một mình”. Không “nổi sảy” sao được khi mình đường đường một “đống” mà bị thiên hạ xách mé gọi là cái con “nhảy nhót trên cây”, nhăn răng khọt khẹt chọc cười bá tánh. Trong gia phả nhà họ khỉ xưa nay chỉ nghe có một mình Tề Thiên Đại Thánh là có danh giá. Còn lại thì toàn là một đám khỉ… múa gậy. Chưa kể có khi độc thân còn bị coi là cái loài “khỉ độc”, chuyên làm hại người ta.
Về khía cạnh tài chính, độc thân ở Mỹ bị đánh thuế thu nhập cá nhân "tơi tả" hơn người có vợ chồng. Xin mời tham khảo biểu thuế của cơ quan thuế nhà nước Mỹ.
Độc thân chánh hiệu chỉ là thiểu số. Còn độc thân giả tưởng thì mới là đa số người. Bởi có ai có vợ có chồng mà lại không có những lúc mơ tưởng mình vẫn còn… độc thân! Mà "mơ tưởng" thì được xá tội, còn "tưởng bở" mới là oan khiên!
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
Ngưỡng mộ
Từ điển tiếng Việt giải thích rằng: ngưỡng mộ là “khâm phục, tôn kính, lấy làm gương để noi theo”.
Ngưỡng mộ được ghép từ hai từ Hán Việt. Ngưỡng: ngước lên. Mộ: yêu mến.
Nhưng chớ có tươm tướp mà sướng cái bụng khi được ai đó nói rằng họ “ngưỡng mộ” bạn. Trong ngữ cảnh này, coi chừng bạn bị trù ẻo… chết đó. Ngưỡng: thấy. Mộ: mồ. Vậy, “ngưỡng mộ” còn là “thấy nấm mồ” của bạn đó!
Bởi lẽ đó, mình là người Việt thì chỉ nên xài ngôn ngữ Việt. Nếu cảm thấy “khoái” Kiến MZ thì cứ việc nói là mình “khoái”. Xin đừng bao giờ “ngưỡng mộ” Kiến MZ nhé!
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
Buồn cười
Minh họa: Internet.
Ngạc nhiên chưa ngôn ngữ Việt! Đã buồn mà lại còn cười được. Có mà tưng tửng, man man.
Thật ra, “buồn cười” là cách nói của người miền Bắc tương tự như “mắc cười” ở miền Nam. “Buồn” là một cảm giác bứt rứt, ngứa ngáy, cục cựa, muốn thực hiện một hành động nào đó của cơ thể. Người miền Bắc còn dùng từ “buồn” tương tự như “nhột” ở miền Nam.
Nhưng rốt cuộc, buồn thì có thể và có nên cười không? Nên quá đi chớ. Càng buồn gắt, ta càng phải tìm cách để cười cho đã, cho quên đi nỗi buồn. Đó là lý do khi tâm trạng buồn bực, căng thẳng, người ta đi xem phim hài, kịch hài. Chớ nếu đã buồn mà còn đi coi bi kịch nữa thì chắc có nước bị tống tiễn ra… Bình Hưng Hòa!
Coi truyện lịch sử, truyện giang hồ, ta thấy các anh hùng hào kiệt trước khi bị kẻ thù hành quyết thường bật cười hào sảng, cười ha hả, cười bất khuất. Người ta trước khi chết mà còn cười được thì huống hồ chi mình mới chỉ buồn một chút lại không thể cười được.
Đúng là chuyện này buồn cười thiệt hé!
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
"Run" và "rung"
Minh họa: Internet.
Chỉ khác nhau có cái đuôi “g” mà hai chữ “run” và “rung” đã ở hai đầu cách biệt.
Xét về cơ bản, “run” chỉ một phản ứng của động vật, còn “rung” là một trạng thái của “tĩnh vật”. Một con chim run rẩy, một căn nhà rung động.
Trong khi không thể sử dụng “run” cho tĩnh vật, người ta vẫn có thể sử dụng “rung” cho động vật, cụ thể ở đây là con người. Lúc này, “run” là một trạng thái vật lý, còn “rung” là một trạng thái tâm lý. Thân thể run rẩy, tâm hồn rung động. Ngay cả ở cái hành động “rung đùi” cũng là thể hiện cái tâm trạng đắc ý, hả hê. Ở đây ta không thèm bàn tới “rung” với vai trò một tác động đối với một cái gì đó bên ngoài (như rung chuông, rung cây nhát khỉ,…)
Người ta “run” khi cảm thấy bất an, sợ hãi hay thể xác và tinh thần bị suy yếu tới mức kiệt quệ (đói run, lạnh run, già yếu run lẩy bẩy,...). Nói tóm lại, "run" là khi con người bị bất ổn. Còn người ta “rung” lúc cảm xúc trào dâng. Đó là “rung động”, kể cả "rung đùi". Cái nghiệt ngã ở đây cũng tương tự như “chữ tài liền với chữ tai một vần” (Truyện Kiều), “rung động” khi cảm xúc đẹp, lãng mạn, nhưng chỉ cần thêm dấu sắc thành “rúng động” là rơi vào tâm trạng bàng hoàng, kinh sợ.
Thường thì “rung” đi trước, “run” theo sau. Anh chàng đi từ chỗ “rung động” trước một cô gái mới gặp phát triển dần tới chỗ “run rẩy” tỏ tình. Cũng có ông “năm bó”, “sáu bó” dạn dày tình trường chớ hề “run rẩy” khi tỏ tình, nhưng vẫn “run rẩy” trước “cơm” khi xé rào “rung động” với “phở”.
Còn trong trường hợp "run" đi trước thì cầm chắc là do người đó có "tà ý" - tâm bất an, xác rục rịch. Ai biểu chưa chi, mới ngó thấy cô nàng là đã "run rẩy" rồi.
Đó là chuyện tiếng Việt nhà mình. Còn “run” và “rung” trong tiếng Anh hay Anh – Việt đề huề thì sao?
Trong tiếng Anh, “run” là động từ “chạy”, còn “rung” là quá khứ phân từ của động từ “ring” (rung chuông, chuông reo,…). Ta thử kết hợp chúng lại và tán hén. Khi “gấu mẹ vĩ đại” ở nhà, ông anh nhà ta đã phải “run” (tiếng Anh, chạy) mất dép hay “run rẩy” (tiếng Việt) như cầy sấy khi điện thoại “rung” (tiếng Anh, reng chuông) hay “rung” (tiếng Việt, khi bật chế độ “bí mật”) mà nhác thấy người gọi là… “gấu yêu”. Xin nói rõ, ở đây chỉ là tán cho vui, không hề có ý “ám chỉ” quý ông THKT nhà mình ở xứ người nghen. Hồn ai nấy giữ mà!
Ngay cả trong cái thành ngữ "hit and run" nữa. Người Việt mình có thể hiểu "đụng" (hit) rồi "chạy" (run), hay "đụng" rồi "run"; hoặc "hít" ai đó rồi "chạy" hay "hít" mà "run". Hít ở đây có hai nghĩa "hun hít" và "ngửi". (Ừ, xin tạt ngang một chút, có ai "hun" mà hỗng tranh thủ "hít" hay không ta? Thực tế, hun mà không hít thì khó lòng đạt tới cái cảm xúc "rung động", thường là bởi "run rẩy" mà quên béng cái vụ hít).
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
Từ "đá lông nheo" tới "bồ đá"
Minh họa: Internet.
Đã có đá banh, đá cầu, đá cá,… thì chớ nên ngạc nhiên khi có “đá lông nheo” – một trong những loại hình “đá người”. Đá lông nheo diễn ra giữa hai người khác phái của hầu hết nhân loại (sở dĩ nói “hầu hết” là vì vẫn còn một thiểu số “xăng pha nhớt” hay người Tây gọi là ladyboy, còn người Thái kêu là kathoey).
Mà cái chuyện “đá mắt” này là cái gien di truyền do ông bà ta từ nhiều đời trước truyền lại cho con cháu à nghen. Từ lâu lâu lắm rồi, văn chương thi phú nhạc họa đều tốn biết bao giấy mực cho cái vụ “liếc mắt đưa tình”.
Ta thử làm một vòng Thi đàn nhé.
Thi sĩ Đinh Hùng say sưa nói nhiều về đôi mắt:
Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng
Có nàng thiếu nữ đẹp như trăng
Mắt xanh là bóng dừa hoang dại
Âu yếm nhìn tôi không nói năng...
(Tự tình dưới hoa)
Nuớc buồn cũng bởi mắt em xanh
Hồ biển rưng rưng biếc mấy thành?...
(Nụ cười thương nhớ)
Tôi nhìn cặp mắt trong xanh ấy
Để thấy hồn tôi trong mắt xanh.
(Hương)
Ngay cả nhà thơ “đạo sĩ” Phạm Thiên Thư khi xuống núi cũng phải thốt lên:
Mắt em không chấn song
Mà cầm gian Nhật Nguyệt
(Mắt xanh)
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cho Từ Hải tới tận thanh lâu hỏi Thúy Kiều:
Bấy lâu nghe tiếng má đào
Mắt xanh chẳng để ai vào có không?
Bích Khê “máu lửa” hơn khi tả:
Ôi! cặp mắt của người trong tơ ngọc
Sáng như gươm và chấp chóa kim cương!
Mỗi cái ngó là một vì sao mọc!
Mỗi liếc yêu là phảng phất mùi hương.
Hai mắt ấy chói hào quang sáng ngợp
Dẫn hồn ta vào thế giới thiêng liêng.
(Cặp mắt)
Tế Hanh từng dằn dỗi khi bị người trong mộng quăng cục lơ:
Anh tưởng chỉ cần trông thấy thôi
Là em hiểu rõ lòng anh rồi.
Mối tình chan chứa trong đôi mắt,
Anh biết làm sao nói những lời…
(Hờ hững)
Nguyễn Bính thì ám ảnh bởi đôi mắt nhung tới mức tình nguyện làm nô lệ cho nó:
Phải chăng tôi đã yêu rồi?
Hồn xin quỳ dưới mắt người từ đây
Đêm qua buồn quá tôi say
Đã mơ một giấc mơ đầy mắt nhung!
(Mắt nhung)
Không chỉ tương tư màu áo của người ta, Nguyên Sa còn tơ tưởng đôi mắt:
Em tìm âu yếm trong đôi mắt
Thấy cả vô cùng dưới đáy sông
(Em gầy như liễu trong thơ cổ)
Trong khi đó, nhà thơ “con nai vàng ngơ ngác” Lưu Trọng Lư thấy coi mòi lãng mạn chưa chắc cú bèn giở cái chiêu hơi bị “tàn nhẫn” – “móc mắt” người tình làm của riêng:
Mắt em là một dòng sông
Thuyền anh bơi lội giữa dòng mắt em.
…
Phép gì khỏi nhớ đừng trông
Mắt em bỏ túi, vắng lòng đem soi.
(Đôi mắt)
Không chỉ có các ngài tao nhân mặc khách, dân gian ta cũng có câu ca dao:
Trời sinh con mắt là gương
Người ghét ít ngó, người thương ngó hoài
Đó đó, khi có tình ý với ai, người ta thường có “ám hiệu” bằng cái nháy mắt, nheo nheo mắt; riêng mấy cô thì khi cảm xúc trào dâng trước người ấy thường cứ chớp chớp mắt lia lịa giống như bị bụi rơi vô mắt. Đó là “đá lông nheo” chớ còn gì. Mà đá nhiều thì trách sao lông nheo không bị rơi rụng.
Nhà thơ Đoàn Thị Tảo viết trong bài thơ “Cho một ngày chị sinh” để tặng chị mình là nhà văn Đoàn Lê (sau này được Trọng Đài phổ nhạc thành bài "Chị tôi"):
Thế là chị ơi
Rụng bông gạo đỏ
Còn ở đây, Kiến MZ học đòi mà cảm thán rằng:
Thế là em ơi
Rụng lông nheo rồi…
Rồi khi đạt tới level “cao cao bên cửa sổ, có hai người… kiss nhau” thì lúc ấy môi chạm môi, mũi quẹt mũi, mắt đụng mắt, lông nheo quện lông nheo lại rụng mất mấy sợi lông nheo nữa. Vậy là người ta càng yêu nhau nhiều, càng bị rụng lông nheo nhiều. Nói theo ngôn ngữ toán học, số lượng lông nheo rụng tỷ lệ thuận với cường độ tình yêu. Hay nói theo ngôn ngữ văn chương, “lông nheo là bằng chứng của tình yêu”. Mà hễ rụng nhiều thì phải cấy bù. Đó là lý do mà các cô đang yêu thường phải đi tới mỹ viện cấy hay gắn lông mi giả.
Giờ sang cái vụ vì sao bồ đá lại đau như bò đá? Chính xác là “đau hơn” chớ hỗng phải “đau như” đâu. Bò đá bất quá là đau cái thể xác bên ngoài, nhất là cái… bàn tọa, chịu khó về dán salonpas mấy bữa là êm. Còn bồ đá thì cú nào trúng phóc ngay tận tim cú đó, biểu sao mà không đau thấu tâm can cho đặng. Bồ đá còn đụng tới cả cái sĩ diện, cái niềm kiêu hãnh của giống đực, vốn tự kiêu là mình là giống chuyên đi chinh phục, sát phạt quần hồng (xin đừng lầm với “quần hùng”).
Nếu xét về mối quan hệ giữa “đá lông nheo” và “bồ đá” thì cái sau là hệ quả của cái trước – một cái kết hỗng phải happy end.
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
|
Chọc, ghẹo, chọc ghẹo, ghẹo chọc
Cả 4 chữ chọc, ghẹo, chọc ghẹo, ghẹo chọc đều mang ý nghĩa “lành mạnh” là đùa vui nhau.
Minh họa: Internet.
Chọc mang ý nghĩa đùa cợt nhau, phá nhau (như nghĩa của từ “trêu” ở miền bắc). “Thằng A bị lũ bạn học chọc hoài về cái tật mít ướt.”
Ghẹo thì ngoài ý nghĩa tương tự như “chọc”, còn có thể mang một nghĩa “romantic” nữa là “tán…gái”. “Bọn con trai Khu Thành Công khoái ghẹo mấy đứa con gái Khu Nhà thờ.” Khi nũng nịu thì cái chữ “ghẹo” được biến âm thành “dẹo”. “Cô ơi, bạn N nó dẹo em kìa.”
Khi kết hợp cả hai chữ “chọc” và “ghẹo” thành “chọc ghẹo” hay “ghẹo chọc”, cường độ của “hành vi” không hề tăng “double” mà ngược lại còn được làm cho mềm đi, nhẹ đi. Nó chung chung hơn. Và “chọc ghẹo” trở thành “trung tính”, không còn mang ý nghĩa “romantic” nữa.
Chọc ghẹo “lành mạnh” phải xuất phát từ cái tâm hướng thiện và dựa trên nền tảng tình thương mến thương nhau. Chọc ghẹo cho nhau vui, tăng thêm tình thân ái, để lại những kỷ niệm mai sau còn nhớ. Chọc ghẹo "lành mạnh" có mục đích duy nhất là cho tất cả đều vui, và làm cho người được chọc ghẹo thêm "đáng yêu" hơn. Dứt khoát đó không phải là kiểu chọc ghẹo khiến cho người khác (cả người bị chọc ghẹo lẫn đệ tam nhân) bị tổn thương và trở nên "đáng thương".
Tất nhiên, phàm thì là mà rằng trên đời này hành động nào cũng phải có liều lượng, giới hạn. Quá đáng thì mất vui, gây mất đoàn kết nội bộ, thậm chí tệ hại nhất là “đôi ngã chia ly”. Quá đáng ở đây có hai lẽ: Một là, quá liều lượng, vượt qua khả năng chịu đựng của người được (hỗng phải bị) chọc ghẹo. Hai là, thiếu ý tứ, mà bà con Nam bộ gọi là “vô duyên… thúi!”
Ngoài ra, cũng hên xui thôi. Cùng một cái tổ ong, nhưng có khi, có người chọc vào chỗ “cát” thì tha hồ nếm mật ngọt; còn có lúc, có kẻ chọc phải chỗ “hung” thì bị đám ong túa ra chích cho tới mức mẹ ruột cũng không còn nhận ra nổi mặt mày thằng con cưng.
Cứ coi các thành viên “năm bó”, “sáu bó” có giác của Từ đường THKT chọc ghẹo nhau thì hiểu ngay mà. Hỗng trách mà có không ít bà con khai thiệt, hễ vô Từ đường là cười đau bụng. Mà cười được thì có nghĩa là lòng vui, tâm trạng thư thái, suy ra sẽ thêm yêu đời, thêm khỏe ra, thêm sống lâu hơn. Mà Từ đường nhà mình hoàn toàn “free” cái khoản thuốc bổ cười này. Ai cần xài bao nhiêu, cứ thoải mái mà lấy, thậm chí lấy nhiều còn được “bonus” nữa.
KIẾN MZ
bình "loạn"
|
|
|
Bất hiếu
Mùa nắng nóng
người ta dễ tìm
tới cái món gọi
là "bất hiếu".
Hỗng lẽ do nóng
quá người ta dễ
nổi quạu, nổi
điên, tới mức
cha mình mà cũng
"vũ tử" (biến
thể từ "vũ
phu")? Tội bất
hiếu đó đáng để
lãnh "cầu đầu
trảm".
Còn ở đây, "bất
hiếu" đã lắm.
Giữa cơn nắng
nóng, cháy khát
cả cổ mà có một
ly đá chanh thì
còn gì bằng! Mà
"đá chanh" lại
là nói lái của
"đánh cha".
Đánh cha
đích thị là
bất hiếu rồi
còn gì!
Bún Xiêm Lo
Hôm rồi thầy Đỗ Hiền Triết chuyển cho Kiến Bình “loạn” thắc mắc của Người Ngây Thơ về món bún Xiêm Lo mà thầy Ngô Nguyên Trái của mình mở quán kinh doanh sau một lần được học trò ở Mộc Hóa dẫn đi “cháp” món này.
Mới nghe cái tên bún Xiêm Lo thì người từng ăn sẽ nghe thoang thoảng đâu đây mùi bún rất đặc trưng của nó, còn người chưa ăn thì nghĩ ngay đây là một món ẩm thực Khmer.
Nhiều người cho đây là một món hợp tấu Việt – Khmer. “Xác” là canh rau tập tàng Nam bộ. Còn “hồn” là bún nước lèo.
Thật ra, đây là một loại canh ăn với bún. Nó giống như canh cà chua với thịt nạc heo băm vo viên chan vào bún gọi là bún mọc. Canh Xiêm Lo ăn với bún thành ra bún Xiêm Lo.
Trong một bài viết về bún Xiêm Lo trên báo Thanh Niên có nói: “Nhiều trưởng lão ở Sóc Trăng cho rằng Xiêm Lo là tác phẩm của cuộc phối ngẫu giữa anh chồng người Việt và vợ Khmer kén ăn. Bởi ban đầu, nguyên liệu nấu canh này là cá đồng (cá lóc hoặc lươn), tép bạc. Mắm nêm canh là bù-hốc, được làm bằng cá tạp loại nhỏ: sặc, rô, cửng, tốp…Rau nấu canh là bầu non hoặc rau ngổ. Nghe qua, chắc không ít bạn nghi ngại vì canh này "ô hợp" quá. Song chẳng phải vậy. Món này có mùi thơm độc đáo lắm. Đó là kết quả của sự cộng hưởng, thăng hoa của củ sả đập giập, thính gạo nếp và mắm bù-hốc đã khử tanh bằng dầu (mỡ) gia thêm tỏi, ớt. Và vị ngọt cũng thế, đó là sự giao hưởng giữa chất đạm cá đồng, tép tươi với đạm của mắm.”
Nhưng đó là Xiêm Lo của các chuyên gia ẩm thực.
Còn với Kiến Bình “loạn”, khác à nghen.
Cái tên Xiêm Lo cho thấy một sự tự tin vào chất lượng, đồng thời đe dọa, hăm he đối thủ cạnh tranh. Nó hàm ý, món bún này ngon tới mức mà người Xiêm (tức láng giềng Thái Lan) phải lo lắng. Người Thái vốn nổi tiếng với món canh lẩu Thái vừa chua té… nước miếng, vừa cay chảy nước mắt, nước mũi. Đối thủ của nó chính là bún Xiêm Lo.
Tuy nhiên, đó là lý lẽ của những ai nặng nợ với bà con Khmer, từng tơ tưởng một tấm Xà-rông quấn trên mình một nàng Khmer họ Thạch. Còn với những ai thường xuyên lai vãng tới Pattaya mải mê ngắm nhìn mấy nường Kathoey (tên gọi của giới tính thứ ba ở Thailand) chuyển đổi giới tính thì ắt hiểu theo một hướng ngược lại 180 độ. Bún Xiêm Lo có nghĩa là bún dở ẹt tới mức người Xiêm phải lo rằng nó sẽ bị ế nhề ế nhệ.
Chẳng biết ai đúng ai sai, nhưng khi sực nhớ tới chủ quán bún Xiêm Lo Thạch Xà-rông là ngài Ngô Vàng, ta không khỏi nơm nớp lo sợ. Bậc thầy “ma-kết-tinh” (ma kết hợp với tinh thành quỷ) này lừng danh là người đụng cái gì ế cái nấy. Chán món bắp gia truyền, ngài chuyển sang bán cà chua – thành cà chua ế, bán gừng – thành gừng dội khẩu, nay vừa mới quấn xà-rông mở quán bún Xiêm Lo được mấy bữa lại rắp ranh dòm ngó tới món thuốc đông y Đả Hoài Hương Đặc Dược. Hèn gì mà lâu lâu ghé qua lại thấy ngài Ngô Vàng ngồi giữa đám ruộng ngô mà cạp bắp!
Cá mú
Thầy Đỗ Hiền
triết vừa chuyển
tới Kiến MZ thắc
mắc của Người
Thắc Mắc về từ
"cá mú".
1. Cá mú là tên
một loài cá nước
mặn, sống ở các
vùng biển nhiệt
đới và á nhiệt
đới, tập trung
nhiều ở Thái
Bình Dương. Họ
cá mú còn có tên
khác là họ cá
song (tên khoa
học Serranidae).
Việt Nam có tới
30 loài cá mú.
Cá mú thuộc nhóm
cá dữ, ăn mồi
động vật sống.
Cá mú khổng lồ
có thể nặng tới
20kg hoặc hơn.
(Xin
click vào đây
để chiêm ngưỡng
dung nhan loài
cá mú đỏ). Cá mú
luôn là loại cá
được ưa chuộng
hàng đầu trong
các loài cá biển
vì thịt trắng,
ngọt, dai, thơm
ngon. Ở nhà
hàng, người ta
chuộng loại cá
mú trên dưới 1kg
cho vừa ăn. (Xin
click vào đây
để thưởng thức
mòn cá mú hấp).
2. Có lẽ do quá
được "ngưỡng mộ"
bởi cái tính
"hẩu xực" mà từ
cá mú còn được
dùng làm danh từ
chung chỉ các
loại cá. Như
người ta nói:
"thịt thà cá
mú".
3. Những người
đi biển, nghề
sông nước, kiêng
cữ gọi chính tên
của một vài loài
cá. Như cá voi,
cá ông được gọi
là ngài hay ông.
Như vậy, "cá mú"
có thể là cách
gọi kị húy của
"cá mập", vì
"mú" còn có
nghĩa là mập, to
con.
4. Nếu từ "cá
mú" được phát ra
từ cửa miệng của
những chuyên gia
nói lái như bạn
Lê Ngọc Điền nhà
mình, thì bạn
phải cẩn trọng.
Bởi có thể nó
không phải là
loài động vật
dưới nước mà lại
là một con "chim
cái". "Cá mú"
được đọc lái từ
"cú má" = "cú
mẹ" => "chim
cái".
5. Cũng kiểu nói
lái, "cá mú" là
kết quả của cách
nói vừa lái, vừa
lẹo (miệng) của
"má cú" = "má
cứu", để diễn tả
một chuyện vô
phương cứu chữa,
chỉ thua 'trời
cứu" thôi. Thí
dụ: "Cá mú mày
rồi đó con ơi!"
có thể hiểu là
"Má cứu mày rồi
đó con ơi!".
6. Khi nghe dân
cá độ bóng đá
nói với nhau, từ
"cá mú" có thể
có nghĩa là "bắt
cá đội MU". (MU:
Manchester
United).
7. Bọn tội phạm
có thể dùng từ
lóng "cá mú" để
báo là "không có
công an". "CA",
viết tắt của
"công an",
thường bị gọi là
"cá". "Mú" còn
có nghĩa là
"không", "hết
sạch".
8. Mặc dù "mú"
còn có nghĩa là
mập, nhưng "gái
mú" không hề có
nghĩa là "gái
mập". Từ lóng
(slang) "gái mú"
này được dùng để
chỉ cái vụ "gái
trai" của dân ăn
chơi. Nó cũng
đồng nghĩa với
"gái gú".
9. ... Hình như
Kiến MZ hơi bị
quởn đó nghen!
Các thầy
Ngồi đọc đi đọc
lại các trang
viết trên Web
THKT sao mà thắm
đậm tình nghĩa
thầy trò quá
chừng. Nhưng tôi
bỗng giựt mình,
run rẩy khi phát
hiện một "chi
tiết chết
người". Đó là
khi mọi người
dùng cách xưng
hô "các thầy"
coi rất trang
trọng, tôn kính
nhưng lại quên
đi mất tiêu rằng
"các thầy" còn
là cách nói lái
của "cầy thác",
mà "cầy thác" có
nghĩa là "chó
chết".
Vì lẽ đó, từ nay
xin mọi người
hãy dùng cách
xưng hô đầy đủ
là "các thầy cô"
chớ đừng dùng
"các thầy" nữa
nhé. (NGUYỄN
CÔNG PHONG
bình "loạn").
Chợ búa
Cái Người Thắc
Mắc lại mới nhờ
thầy Đỗ Hiền
triết chuyển
tới Kiến MZ thắc
mắc về từ
"chợ búa".
1. Cứ suy diễn
theo cách gọi
như chợ cá, chợ
thịt,... thì
"chợ búa" đơn
giản là nơi
chuyên bán...
búa rồi chứ gì.
Tới đây, bạn có
thể chạm mặt một
khách hàng
thường xuyên là
Chú Cuội. Chàng
ta liên tục mua
búa cho bén về
chặt mớ cành đa
đem bán lấy tiền
mua thẻ cào gọi
điện "tám" với
chị Hằng Nga.
2. Nhưng thông
dụng nhất là
"chợ búa" được
dùng để chỉ công
việc buôn bán
nói chung ở chợ.
"Đi chợ búa kiếm
chút tiền độ
nhật." Khi nói
tới những người
sống ở chợ, buôn
bán ở chợ, người
ta chỉ gọi là
"dân chợ"; còn
nếu thêm từ
"búa" thành "dân
chợ búa" thì lại
mang nghĩa xấu;
kêu lạng quạng
có thể bị chém
bằng búa!
Còn vì sao lại
gọi là "chợ
búa", thì theo
tài liệu gia
truyền khai quật
được dưới những
tảng đá Núi Đất,
hồi xưa, người
bán hàng ở chợ
không "chém"
người mua hàng
bằng dao (đặc
biệt là dao cạo)
như hiện nay, mà
thường dùng búa.
Vì thế, bên quầy
tính tiền, người
ta không treo
thẻ môn bài mà
lủng lẳng những
cây búa luôn
được mài bén
ngót. Từ đó chợ
được gọi là "chợ
búa".
Dao động
Trong bất cứ
tình huống nào,
dù thật nguy
kịch, ta cũng
không được dao
động. Bởi dao
động đồng nghĩa
với thất bại,
với tiêu đời.
Dao dộng
là một cách nói
tắt của "động
dao, động thớt".
Nghĩa là chuẩn
bị ra tay dùng
dao mà hạ thủ.
Không chết cũng
bị thương là cái
chắc!
Đạo sĩ
Thầy Đỗ Ngọc
Trang từ Elk
Grove chuyển
thắc mắc của
Người Ngây Thơ
hỏi về "đạo sĩ".
Theo Việt Nam Từ
điển Khai Trí
Tiến Đức, đạo sĩ
là người theo
đạo thần tiên
của Lão giáo.
Nói nôm na là
người tu tiên
giữa cõi nhân
trần. Cái này
coi bộ là cái
"ám ảnh" đạo sĩ
của thầy Nguyễn
Văn Hòa. Khác
với "thiền sĩ"
Đỗ Xanh trốn
Nước Biếc Phu
nhân ra động
Đình Hồ ngồi
nhập thiền một
mình thoát tục,
"đạo sĩ" Hòa
Guitar ngồi tựa
vào Nước Ngọc
Phu nhân gảy đàn
tình tang mà tu
tiên. Nhưng coi
chừng có người
vịn cớ mần "đạo
sĩ" để né việc
nhà, có ông nại
cớ để
trốn việc chồng!
Thiện tai, thiện
tai!
Nói chung, đạo
sĩ là những
người tu hành
của các giáo
phái, khác với
tu sĩ là nhà tu
hành của các tôn
giáo. Đạo sĩ có
thể có bùa phép,
và điều hấp dẫn
nhất là có thể
có đạo sĩ chồng,
đạo sĩ vợ, đạo
sĩ con, đạo sĩ
cháu,...
Người ta cũng
thường dùng danh
xưng "đạo" cho
những người có
hành vi, cách
sống khác bình
thường, khác
thiên hạ. Nó gần
giống như "dị
nhân".
Hồi trước 1975 ở
Saigon có thời
gian rộ lên
những ông đạo,
bà đạo thuộc
loại... "trời
thần". Chẳng hạn
có một ông bữa
nọ hỗng biết ăn
trúng thứ gì mà
bắt đầu có cách
đi đứng kỳ cục
là cứ đi 3 bước
thì lùi lại 2
bước. Thiên hạ
phong cho ông ta
ngoại hiệu "đạo
Chậm". Bữa nọ,
đang di chuyển
cà giựt cà tàng
kiểu hỗng giống
ai ở khu vực
công viên Quách
Thị Trang trước
chợ Bến Thành,
ông ta "mót"
quá, chịu không
nổi nên "tháo
nước trong
người" ngay tại
chỗ. Khi nhác
thấy cảnh sát
xách dùi cui
chạy tới, ông
"đạo" nhà ta
hoảng hồn ba
chân bốn cẳng bỏ
chạy có cờ. Vậy
là mất ngoại
hiệu "đạo Chậm".
Cứ chiếu theo
tiền lệ thì mấy
vị trong cái
gánh xiếc "Đạo
Nổ Ngàn Phương"
của thầy Đỗ Xanh
cũng có thể
được gọi là "đạo
sĩ". Bởi thiên
hạ làm xiếc
người, xiếc thú,
còn họ chơi khác
thường làm xiếc
chữ. Họ lại có
cái công phu "nổ
banh xác" luôn,
nổ tới mức Bác
Ba Phi sống lại
cũng phải bái
làm sư phụ! Cứ
coi cái công phu
"đạo nổ" của thầy Ngô
Vàng ắt rõ!
Còn trong quân
đội, hỗng rõ
"đạo sĩ" nằm ở
khúc nào trong
nhóm hạ sĩ quan:
hạ sĩ, trung sĩ,
thượng sĩ?
Giới văn nghệ
thì tẩy chay
những kẻ bị dán
cái mác "đạo
sĩ", viết tắt
của "đạo chích
văn chương". Đó
là những kẻ "cầm
nhầm" văn thơ
của người khác
làm của mình.
Đâm chuột
Ở Mộc Hóa có một
món đặc sản là
thịt chuột đồng.
Bữa nọ, có anh
bạn được hỏi:
"Mùa hè mỗi ngày
ông đi "đâm
chuột" mấy lần?"
Lâu rồi thiên hạ
truy bắt dữ quá,
chuột đâu còn
nhiều mà ngày
nào cũng đi đâm.
Bởi vậy, anh bạn
trả lời: "Năm
bữa nữa tháng
mới làm một
lần". "Trời thần
đất quỷ ui, sao
ông ở dơ dữ vậy?
Ai mà chịu đời
cho nổi! Hôi
rình! Thúi
hoắc!"
Này nhé, "đâm
chuột" tức là
"đâm tí". Mà
"đâm tí" là nói
lái của "đi tắm"
đó mà!
Hành hương
Theo từ điển
chính thống,
hành hương là ra
khỏi nơi mình ở,
nơi mình thường
sống để đến một
nơi linh thiêng
nào đó.
Nhưng không chỉ
có ý nghĩa tâm
linh, hành hương
còn là một từ
tượng hình,
tượng cảnh. Bởi
ở các nơi thờ
tự, cúng bái,
thiên hạ thường
đốt hương
(nhang) mù mịt.
Vì vậy, hành
hương còn có
nghĩa là "hành
hạ mấy cây
hương" (đốt
lu bù) hay bị "hành
hạ bởi hương"
(do ngột ngạt
mùi khói hương).
Hấp hôn
Ai cũng biết
"hấp" là làm cho
nóng lại. Như
hấp cơm. Nó na
ná như "hâm"
(hâm canh).
Nhưng "hâm" thì
dùng lửa bếp tác
động trực tiếp
lên xoong chảo,
còn "hấp" thì
chủ yếu dùng
nguồn nhiệt tạo
hơi nóng để làm
cho vật thể nóng
lên. "Hấp" vì
thế sẽ "đổ nhiều
mô hôi".
Suy ra: "hấp
hôn" là làm nóng
lại cuộc hôn
nhân. Sở dĩ dùng
"hấp hôn" hay
hơn "hâm hôn",
vì chuyện này
cần phải "đổ
nhiều mồ hôi
nước càng tốt"
và một lẽ nữa là
nó gợi ngay liên
tưởng đến từ bà
con "hấp hối".
Cuộc hôn nhân mà
không được làm
nóng, giữ nóng
liên tục thì dễ
dàng đi tới...
hấp hối! vậy
thì, tùy bạn
chọn: hấp hôn
hay hấp hối!
Ít ly
Hôm rồi một số
thầy trò THKT về
thăm lại Mộc
Hóa. Về Đồng
Tháp Mười mà
không bị đổ rượu
mới là chuyện
lạ! Nhưng sao
mới uống có "ít
ly" lại xỉn quắc
cần câu vậy cà?
Xét đúng bài bản
thì tuy "ít ly",
nhưng dân Đồng
Tháp Muời chơi
toàn ly cối rượu
đế, chịu đời sao
thấu!
Còn xét về nghĩa
tửng từng tưng,
"ít ly" là style
nói lái của "y
lít" đó mà!
Kiểu nào cũng từ
chết tới bị
thương!
Làm thinh
- Thầy Ngô
Nguyên Soái:
Kiến MZ ơi,
trong tiếng Việt
chúng ta, từ
Thinh có nghĩa
là Thanh (tiếng
động). Nhưng tại
sao ngày xưa,
nhiều lần tôi đã
"làm thanh" với
một cô hàng xóm
(dung nhan cũng
khá đèm đẹp) để
được làm quen
nàng, nhưng mà
rồi nàng lại cứ…
"làm thinh"?!
Đáng lẽ "làm
thinh" đúng
nghĩa là nàng
phải lên tiếng
trả lời “yes”
hay “no” cho tôi
chứ, đàng này cô
nàng làm thinh
lại có nghĩa là…
nín thinh! Ôi!
sau lần đó về
nhà nhớ lại, tôi
bị.. "buồn ba
bốn ngày"! Còn
chần chừ chi nữa
mà Kiến MZ không
bình loạn dùm
cái từ ngữ rắc
rối, khó hiểu
này đi, kẻo
không, có người
hiểu lầm rồi lại
phải bị… "buồn
xong vẫn buồn"!
Mong Kiến MZ
đừng... làm
thinh trước khẩn
cầu này. Đa tạ.
- Dạ thưa thầy
Ngô Nguyên...
Trái (dạ xin
lỗi, Bắp Nguyên
Soái; lại nhầm
thầy Ngô Nguyên
Soái), đã có
lệnh của thầy
thì làm sao học
trò dám... làm
thinh!
Ở đây có 2 kịch
bản.
1. "Thinh" có
nghĩa là
"thanh". Thật
may cho thầy Ngô
vì ngày đó cô
hàng xóm "làm
thinh" (với
nghĩa là nín
thinh). Nếu cô
ấy mà "làm
thanh" rùm beng
lên khắp đầu
làng cuối xóm
thì thầy chắc ê
ẩm cái tấm thân
"cá lành canh
truyền thống"
rồi. Vấn đề ở
đây cần phải
giải mã là vì
sao cô hàng xóm
lại "làm thinh"
khi thầy Ngô
"làm thanh"?
2. "Thinh" theo
ngôn ngữ của quý
phụ nữ. Các
chuyên gia nói
rằng phụ nữ
thường nói hay
làm ngược với
những gì lòng
mình nghĩ. Thí
dụ, "phụ nữ nói
có là không, nói
không là có". Cô
hàng xóm "làm
thinh" có nghĩa
là đồng tình và
nhá đèn xanh
"tới luôn bác
tài"! Vấn đề ở
đây cần phải
giải thích là vì
sao thầy Ngô
Nguyên Soái lại
không nhận ra
"tín hiệu" của
cô hàng xóm?
Mệt nghỉ
Ở đây, mệt nghỉ
không có nghĩa
là "mệt rồi thì
nghỉ". Mệt
nghỉ không
phải là nghỉ
mệt. Mệt
nghỉ ở đây hàm
nghĩa là vô số
tận, nhiều lắm,
không hết. Thí
dụ: Xài tiền mệt
nghỉ. Ăn mệt
nghỉ. Khi nghe
ông chủ bảo "Làm
mệt nghỉ" mà bạn
hí hửng rằng "làm
tới khi nào
mệt thì
nghỉ" thì
chắc chắn bạn sẽ
phải húp cháo vì
bị cho nghỉ vĩnh
viễn!
Nghệ nhân
Nghệ nhân là một
người khéo tay,
khéo chân, đạt
tới mức thượng
thừa trong một
môn nghệ thuật
nào đó. Từ điển
giải thích như
vậy.
Nhưng tìm đỏ con
mắt, lục tung cả
cái bộ đại từ
điển bách khoa
trực tuyến
Wikipedia cũng
không tìm ra ở
đâu cắt nghĩa
"nghệ nhân" là
một thuật ngữ y
khoa. Cũng không
rõ các bác sĩ
trong Phòng mạch
THKT đã từng học
qua chưa? Thì
nè, "nghệ" là
màu vàng (vàng
như nghệ đó mà),
còn "nhân" là
người. Nghệ nhân
- người màu vàng
đích thị là
người mắc bệnh
gan rồi. Mà đây
là giai đoạn hết
thuốc chữa à
nghen, vì bình
thường thì người
bệnh gan chỉ
vàng hai con mắt
thôi, đàng này
vàng tới nguyên
cả body thì chí
nguy rồi.
Vì thế, từ nay,
có ai xưng tụng
(hay chửi rủa,
tùy ngữ cảnh)
mình là "nghệ
nhân", bạn cũng
đừng có quá
"ham" mà bị "hố"
đó nghen!
Ôn cố tri tân
Ôn cố tri tân là
một thành ngữ
Hán Việt có
nghĩa là ôn lại
chuyện cũ để
biết làm chuyện
mới. Nói cho gọn
là "rút kinh
nghiệm" đó mà.
Vào mỗi cuối
năm, từng tập
thể, từng cá
nhân có tập tục
tốt đẹp là tổng
kết lại một năm
qua và đề ra kế
hoạch cho năm
mới. Và năm mới
chỉ có thể thành
công dựa trên
những nền tảng
(cả những thành
quả lẫn những
kinh nghiệm) của
năm cũ.
Có điều hỗng
giống ai là dịp
cuối năm đầu
tiên kết nối lại
được với nhau,
bà con Gia đình
THKT mình lại
không ôn cố tri
tân như thiên hạ
mà hè nhau đi
vọng cố nhân.
Chẳng lẽ phiên
bản 2010 ôn cố
tri tân của THKT
là "ôn cố nhân,
tri tân nhân"?
Thiệt tình, ai
chẳng có cố nhân
để nhớ. Chí ít
cũng một người.
Đó là chưa kể
các bậc "nguyên
soái tình
trường" có danh
sách cố nhân dài
sọc như sớ Táo
quân: A Lìn,
sà-rông, răng
khểnh, môi
vều,... chỉ nghe
liệt kê thôi
cũng biết cuộc
đời ốm o triền
miên. Chỉ có kẻ
bạc tình, có
trăng quên đèn
mới không nhớ cố
nhân. Nhưng vọng
thì cũng có ba
bảy đường vọng.
Vọng sao cho vui
cửa, êm nhà mới
đáng là THKT
chân nhân! Chữ
"vọng" còn cặp
kè với chữ
"tưởng" thành
"vọng tưởng"
những chuyện hão
huyền, viễn
vông. Bởi vậy
mới cần tới câu:
Cố nhân là
của ngày xưa
Vọng thì cứ
vọng, nhưng chừa
tưởng ra!
Thôi thì hãy làm
theo cái nghĩa
tích cực của "ôn
cố nhân, tri tân
nhân" là rút
kinh nghiệm (ôn)
với người xưa mà
biết (tri) xử
sao cho tốt đẹp
với người nay!
Gia đình THKT
mình chỉ toàn là
những hảo hán,
những anh thư
giàu tình cảm và
tình nghĩa, bởi
nếu thiếu hai
cái chữ "tình"
này thì chúng ta
đâu thể xúm xít
quây quần bên
nhau, bất chấp
không gian và
thời gian, như
thế này!
Ông nội... dư
Thú thiệt, lần
đầu tiên trong
đời Kiến MZ mới
được nghe tới
cái từ “ông nội
dư” do thầy Ngô
Nguyên soái xưng
danh. Nói theo
style của thầy
Đỗ Hiền triết
thì ở đâu mà
“tòi” ra thêm
mấy ông nội, bà
nội vậy ta?
Hy vọng “ông nội
dư” ở đây chỉ có
nghĩa như vậy.
Đó là có thêm
mấy ông nội
“ngang hông”,
mấy ông nội
“khuyến mại”
(bonus grandpa),
mấy ông nội ăn
theo. "Ông nội
dư" được ông nội
"chân truyền"
ban tặng cho
bằng hữu có chọn
lựa trong buổi
trà dư tửu hậu,
không có gì phải
ràng buộc như
"ông nội nuôi".
Riêng với thầy
Ngô Vàng thì
thầy ấy sắc phong
danh xưng "ông
nội dư" với tiêu
chuẩn không hề
dễ xơi như ăn xôi
bắp đâu: Cha mình
kết giao thâm
tình như anh em
ruột với người
bạn nào đó thì
con của mình gọi
những người đó
là "ông hay bà
nội dư". Tình
cảm của đứa trẻ
hoàn toàn thực
sự xem "ông bà
nội dư" như là
ông bà nội ruột.
Và quan trọng
nhất là chỉ khi
nào những người
lớn này xét thấy
thực sự họ yêu
thương nhau như
anh em ruột. Từ
"ông bà nội dư"
không thể bạ ai
cũng gọi được vì
"ông bà nội dư"
là danh hiệu cao
quí, trân trọng
của những tấm
lòng với tấm
lòng. Đây là
danh xưng cổ và
không được phổ
biến lắm nên ít
người biết và
hiểu.
Chẳng rõ là với
số lượng "ông bà
nội dư" có thể
đông tới cả tiểu
đội, trung đội
như vậy, liệu có
phải lập ra "hội đồng
ông bà nội dư"
không?
Cũng có điều còn
cà ngơ cà ngất:
ông nội "chân
truyền" gọi là
"ông nội ruột",
vậy sao anh em
kết nghĩa thâm
tình với ông nội
ruột lại không được
gọi luôn là "ông
nội ruột dư" cho
nó tiện hơn?
Quả thiệt là
cháu nội có số
đẻ bọc điều nên
ngoài ông nội
“có sẵn để xài”
còn có thêm một
mớ “ông nội dư”
sơ-cua. Giống
như cô cháu Bạch
Tuyết có 7 “ông
nội” chú lùn. Đó
là một loại của
dư, của để.
Cầu mong “ông
nội dư” ở đây
được gọi hỗng
phải theo kiểu
“Hội đồng Dư”
trong vở cải
lương Tiếng hò
sông Hậu, một
ông hội đồng
thất nhơn thất
đức top-level!
Ông nội ngang
hông mừng vui và
hạnh phúc khi
được xưng tụng
là “ông nội dư”.
Còn ông nội
“chân truyền” mà
để bị gọi là
“ông nội dư” thì
thiệt là tiêu
Vên Vên. Ngay cả
các vị được xưng
tụng là "ông bà
nội dư" cũng
phải ráng mà
sống sao cho
xứng đáng. Kẻo
không thôi lại
bị thằng cháu nó
lầu bầu: "Có một
ông nội đã mệt
thấy mụ nội (xin
lỗi) rồi, đàng
này có cả bầy
ông nội dư, bà
nội dư! Chịu đời
sao thấu!"
Tất nhiên trên
đời này phàm có
dư thì ắt có
thiếu. “Ông nội
thiếu” hàm nghĩa
là “thiếu ông
nội”, một cách
gọi kiêng húy để
chỉ những ông
nội đã phủi cẳng
nhảy lên ngồi
tréo nguẩy trên
bàn thờ! Bất
hạnh thay cho
cháu nào sinh ra
không còn ông
nội nữa. Làm sao
có được cái hạnh
phúc được bú sữa
ông nội… pha? Có
chăng chỉ có thể
xài tạm sữa ông
già Longevity
Milk mà thôi!
Kiến MZ là người
nói có sách,
mách có chứng.
Nếu sữa bò là
sữa vắt từ con
bò, thì sữa ông
già vắt từ đâu?
Sà-rông,
sà-lỏn, và hầm
nắng
Hỗm rày nghe võ
lâm đồn rằng
thầy Đỗ Hiền
triết đang rắp
ranh lập gánh
xiếc chữ, hình
như – cũng theo
đồn đại – để có
cái chức danh
“giám đốc” oách
như thiên hạ.
Chưa kịp xác
minh thì sáng
nay Kiến MZ đã
nhận được thư
thầy Đỗ chuyển
tới hai câu đố
chữ mới đọc
thiếu điều muốn
té giếng của
Người Ngây thơ
(không biết có
“vô số tội”
không?) Đó là:
Cớ sao trong hầm
lại có nắng?
Sà-rông và
sà-lỏn, cái nào
có trước?
Cái hầm nắng
này có lẽ nó
cũng “sêm-sêm”
như cái hầm gió.
Hình như chỉ có
ở xứ
“Mi-chỉ-gàn” mới
có cái hầm nắng
như thế. Phải
chăng “hầm nắng"
là viết gọn từ
“hầm tránh cái
nắng quái cuộc
đời”? Hầm có
nắng nếu không
phải là nắng
nhân tạo thì
đích thị là có
lỗ mọi rồi.
Nhưng suy cho
cùng, hầm có
nắng bởi vì có
mây hồng, mây
hồng chỉ xuất
hiện ở những nơi
có nắng (khôn
cãi trời đất
luôn vì tối thui
ai mà thấy được
mây hồng thướt
tha cỡ nào).
Thiếu nữ Khmer
trong những
chiếc sà-rông
truyền thống.
Còn sà-rông,
sà-lỏn ư?
Vào cái thời ăn
lông ở lỗ, sau
khi tò mò nếm
thử “trái cấm”,
Adam và Eva mới
khám phá được
trên thân thể
mình có những vị
trí quá độc địa,
cần phải che đậy
làm... của riêng
(chủ yếu họ sợ
kẻ khác thấy
được mà nảy sinh
tà ý “chôm” mất
chứ không phải
vì mắc cỡ - như
nhiều nhà nghiên
cứu suy diễn
đâu). Do phụ nữ
vốn tính e thẹn
(ở đây không bàn
tới nó là thuộc
tính hay sự giả
đò), nên có nhu
cầu che đậy cao
hơn. Vì thế mà
sà-rông ra đời
trước. Nhưng phụ
nữ là sinh vật
duy nhất có gene
thời trang hòa
trong máu (nồng
độ tùy người)
nên phải thay
xiêm đổi áo liền
tù tì. Cái
sà-rông đầu tiên
bị loại ra, bỏ
thấy uổng, nên
Adam dùng để may
cái sà-lỏn cho
mình. Nó có cái
vòng lẩn quẩn
thế này: sà-rông
may sà-lỏn, rồi
sà-lỏn kiếm tiền
chạy ra fashion
shop mua sà-rông
cho người may
sà-lỏn.
Có một chi tiết
là cả sà-rông
lẫn sà-lỏn đều
là trang phục phi
giới tính
(unisex), nam
hay nữ đều mặc
được tuốt luốt.
Xin hỏi lại
Người Ngây thơ:
cớ sao không hỏi
luôn 2 câu nữa
cho nó đủ bộ tứ:
Tại sao trái đậu
lại có hột đỗ?
Tại sao kiến đen
lại đen thui?
Sinh nhật
Cái từ sinh
nhật quá đỗi
quen thuộc này
coi vậy mà rắc
rối à nghen.
Từ kép chữ Hán
này dịch sát sàn
sạt là "ngày
sinh". Nhưng nó
lại không dùng
để chỉ ngày ai
đó thật sự cất
tiếng khóc chào
đời mà dùng cho
ngày kỷ niệm
ngày sinh của
người đó.
Tiếng Anh phân
biệt rất rõ:
birthday là
sinh nhật, còn
date of birth
hay day of
birth là
ngày sinh.
Đối với người
Việt Nam, sinh
nhật có nghĩa là
kỷ niệm ngày
sinh từ năm thứ
hai trở đi. Chứ
kỷ niệm ngày
sinh lần thứ
nhất, tức tròn
một tuổi, người
Việt mình gọi là
thôi nôi.
Thế rồi, từ năm
60 tuổi trở đi,
đặc biệt vào các
năm chẵn chục,
người ta không
gọi là sinh nhật
mà là mừng
thọ. Ai sống
tới 60 tuổi thì
bắt đầu được con
cháu mừng thọ.
Năm 80 tuổi, 90
tuổi được gọi là
thượng thọ.
Còn 100 tuổi là
đại thọ.
(Xin lưu ý là từ
60 tuổi đã là
thọ, còn việc
phân chia "đẳng
cấp" thọ thì còn
tùy từng nơi. Có
khi 70 tuổi đã
được gọi là
thượng thọ, 90
tuổi đã là đại
thọ.)
Nhưng có khi nào
bạn nhận ra cái
sự bất hợp lý
này chưa? Đã gọi
là "sinh nhật"
(mừng ngày sinh)
thì phải tổ chức
mỗi tháng một
lần chứ. Thí dụ,
Kiến MZ sinh
ngày 28 thì lẽ
ra hàng tháng cứ
tới ngày 28 là
"tiến hành" nhận
quà cáp thiên
hạ! Nào có ai
gọi là "sinh
nguyệt" hay
"sinh niên" đâu
mà phải đợi một
năm mới mừng một
lần!
Tái ngộ
Theo từ điển
chính thống,
tái ngộ có
nghĩa là gặp
lại (tiếng
Anh là meet
again). Nó được
ghép bởi hai từ
Hán Nôm: tái
(lại) và ngộ
(gặp).
Còn theo Giang
hồ Đại từ điển
Tầm nguyên (hình
như của nhà xuất
bản Tầm Bậy do
chuyên gia Tầm
Bạ biên soạn),
sở dĩ cái vụ gặp
lại được gọi là
tái ngộ vì xuất
phát từ thực tế:
khi gặp lại nhau
sau nhiều năm xa
cách, người ta
dễ xúc động tới
mức gương mặt
"tái" đi coi rất
"ngộ"! Tất nhiên
cũng có nhiều
tình huống khác
khiến người ta
tái mặt, nhưng
những kiểu "tái"
đó coi không có
"ngộ". Thí dụ,
mặt tái vì giận
hay mặt tái vì
sợ thì không thể
nào coi ngộ được
hết.
Tế nhị
Vì sao chuyện
"tế nhị" chỉ nên
hành xử ở chốn
riêng tư, không
nên bày ra trước
mặt bàn dân
thiên hạ?
Rất đơn giản, ta
chỉ việc chiết
tự và phân tích
hai chữ này. Tế
nhị ở đây
được xét như một
từ Hán nôm. "Tế"
là "cúng" và
"nhị" là "hai".
"Tế nhị" có
nghĩa là "cúng
hai", mà "cúng
hai" là cách nói
lái của "cái
hun".
Vì thế, người
"tế nhị" sao lại
"hun" nhau giữa
thanh thiên bạch
nhật ở chốn đông
người?
Thất kinh
Đây là một thuật
ngữ (term) trong
ngành sản phụ
khoa. Nó được
ghép bởi THẤT
(mất, không còn)
và KINH (kinh
nguyệt). Thất
kinh có
nghĩa là có thai.
Từ này đặc biệt
tượng thanh,
tượng hình mô tả
cảnh mặt mày
xanh lè, mồ hôi
đầm đìa, chân
tay lẩy bẩy đối
với những ông
chán cơm, thèm
phở hay những
chàng ăn cơm
trước kẻng khi
thất kinh nghe
nàng báo thất
kinh!
Thi hào Nguyễn
Du cũng từng vận
dụng thuật ngữ
này. Trong
Truyện Kiều,
ông đã mô tả kỳ
án nàng Kiều có
thai (với ai à
ta?) bằng câu:
Đầy sân gươm tuốt sáng lòa,
Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.
Tình già
Tình yêu đích
thực làm gì có
tuổi để mà cân
đong đo đếm là
tình già, tình
non, tình trẻ,
tình xồn xồn.
Vì thế, "tình
già" ở đây, chí
ít là trong Gia
đình THKT, chỉ
nên hiểu là
"tình của người
già".
Khi đã yêu thì
bận tâm chi là
già hay trẻ. Khi
đã yêu thì ai
cũng như ai
thôi, cũng cuồng
nhiệt, cũng đắm
say, cũng ngô
nghê, cũng sẵn
sàng hy sinh cho
người mình yêu.
Yêu là lý lẽ của
con tim, cái lý
trí mà xía vô là
hư bột hư đường
ráo trọi.
Kiến Đen từng
viết trong bài
thơ
Yêu:
Yêu nhau mặn
muối cay gừng
Xìu xìu ển ển
thì đừng có yêu!
Tình thân
Tình thân thường
được dùng và
khoái được dùng
với cái nghĩa
của cụm từ "tình
cảm thân thiết".
Có
nghĩa là tình
thân có cấp độ
cao hơn tình cảm
bạn bè bình
thường. Nó cũng
phi giới tính
(unisex), nam
hay nữ đều dùng
được và không hề
gây ngộ nhận
Pattaya. Và như
vậy, giữa hai
thể nhân khác
phái tính, từ
tình thân phát
triển tới tình
yêu có phần gần
hơn, dễ hơn. Tất
nhiên là còn
phải trông mong
vào sự hên xui
và duyên số! Rõ ràng chẳng
phải ai cũng có
thể được trao,
được hưởng quy
chế tình thân.
Nó là một loại
"limited
edition" (phiên
bản hạn chế) và
thậm chí
"selected
edition" (phiên
bản chọn lọc)
của tình cảm
giữa người và
người.
Tình thân không
phải là thứ bất
biến, thậm chí
còn dễ biến đổi
hơn nhiều thứ
trên đời này, mà
thường nhất là
bị hao mòn qua
thời gian và
không gian. Bởi
vậy, cả hai phía
đều phải có ý
thức và cùng nỗ
lực không ngừng
để duy trì cấp
độ của tình
thân. Nhưng tình thân
còn mang một cái
nghĩa xam xám.
"Thân" trong
tiếng Hán Việt
là cái con khỉ.
Vậy, tình thân
có khi bị biến
thành "tình cái
con khỉ", "tình
của con khỉ".
Thật ra, loài
khỉ cũng có cái
tình của nó, và
nếu thấy loài
người dùng chữ
"tình thân" với
hàm ý xấu, nó có
thể khởi kiện ra
tòa án Thiên
nhiên vì cảm
thấy mình bị xúc
phạm.
Chỉ có điều, khỉ
là khỉ, người là
người, tình cảm
của loài người
mà bị coi giống
như tình cảm của
loài khỉ thì chỉ
còn có nước
ngước mặt lên
trời mà cười ba
tiếng, khóc ba
tiếng, rồi cảm
thán: "Trò
khỉ!".
Tội tình
Trong nhạc phẩm
Bài không tên
số 4, nhạc
sĩ Vũ Thành An
trăn trở: "Nói
cho quên đi
những tội tình".
Rồi dân gian ta
khi ám chỉ
chuyện "hành hạ"
nhau lại có cách
nói là "làm
tình, làm tội"
nhau. Nghe mà
chết khiếp! Cái
nào cũng mệt mỏi
đứ người cả.
Sao mà "tội
tình" đến như
vậy?
"Tội tình" trong
ngữ cảnh này là
cách nói rút gọn
của cụm từ "tội
lỗi về tình
yêu". Bạn có
thấy "tội tình"
không?
Trăng mật
Thầy Ngô Bảo
Toàn:
Một hôm đi ngang
qua nhà vợ chồng
anh chị Tám
Nhiều hàng xóm,
vô tình pha thêm
chút "hữu ý",
Ngô Nguyên soái
tôi được thưởng
thức một cuộc
tranh luận thật
là thú vị cũa
hai nhân vật
này! Chuyện vầy
nè: Anh Tám hỏi
chị Tám: Tui đố
bà vậy chớ chữ
Trăng Mật có
nghĩa là gì? Chị
Tám cười sằng
sặc và trả lời:
Dễ ẹt! Trăng Mật
có nghĩa là hôm
đám cưới xong,
hai vợ chồng lựa
ngày nào trăng
thiệt sáng rồi
rủ nhau ra trước
sân nhà và lấy
mật ra... chấm
ăn! Anh Tám nạt
to: Tầm bậy, tầm
bạ không hè!
Trăng Mật có
nghĩa là sau
ngày cưới, tân
lang và tân
nương rủ nhau ra
sau sân nhà
đặng.. Trật
Măn!? Nguyên
soái tôi thú
nhận là...
"điếc" luôn, bởi
lẽ mình chả hiểu
được ý tứ cũa
hai vợ chồng này
là thế nào! Vậy,
Kiến MZ còn chần
chờ gì nửa mà
không bình
"loạn" dùm mọi
người để thống
nhất nghĩa từ
này cho rõ ràng,
thích đáng hơn.
Kẻo có người
hiểu theo kiểu
riêng của mình
thì... "mệt mỏi"
lắm đó.
+ Hình như thời
trai trẻ ở THKT,
thầy Ngô Nguyên
soái gài bẫy
hoài mà cứ bị
trật vuột nên
giờ thua me gỡ
bài cào, rắp
ranh gài bẫy học
trò chơi.
Trăng Mật theo
cái nghĩa mà quý
thầy cô Việt Văn
khuyên dùng là
thời gian lãng
mạn (trăng) và
ngọt ngào (mật)
đầu tiên của một
cặp vợ chồng.
Rất tiếc là nó
được xác định
chỉ tồn tại có
một... Tuần
trăng mật. Tiếp
ngay sau đó là
những năm tháng
"dập mật" vì
gánh nặng cơm áo
gạo tiền và trân
mình chịu đựng
lẫn nhau của đôi
vợ chồng. Nhưng
Tuần trăng mật
quý giá đó cũng
chỉ có ở những
đôi tân hôn "cân
đối được thu
chi" hôn lễ, còn
với những tân
lang tân nương
xui xẻo thất thu
thì giai đoạn
"dập mật" bắt
đầu ngay từ đêm
tân hôn!
Trong trường hợp
này, vợ chồng
anh chị Tám
Nhiều đã ứng
dụng tập quán
Trăng Mật theo
đúng nghĩa đen
thui của nó!
Còn Trật Măn ư?
Kiến MZ chẳng
dại mà đút đầu
vô bẫy của thầy
Ngô đâu. Chỉ dám
giải thích lòng
vòng bằng cách
chiết tự là:
Trật có nghĩa
như trong câu
"trật áo cho
người ta xem
lưng", và
Măn có
nghĩa như trong
câu "trẻ em măn
vú mẹ". Còn ai
hiểu sao và lắp
ghép như thế nào
thì Kiến MZ vô
can!
Trần tục
Xin nói ngay đây là một chữ chẳng
thanh thoát chút
nào. Nó được
ghép bởi hai chữ
"TRẦN
truồng" và "TỤC
tĩu".
Trung dung
Thuyết Trung dung là một triết lý sống của Nho giáo. Trung là không ngả về một thái cực nào; dung là dung hòa, thích hợp với hoàn cảnh. Và từ xa xưa, đây là một trong những triết lý sống của người Á Đông.
Theo Yahoo! Hỏi & Đáp, với câu hỏi: “Theo bạn, thuyết Trung dung có còn giá trị và ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta như thế nào?”, câu trả lời được nhiều người đồng tình nhất là: “Sách Trung Dung do Tử Tư soạn ra dựa trên cơ sở một thiên trong Kinh Lễ. Tử Tư là học trò của Tăng Tử, cháu nội của Khổng Tử, thọ được cái học tâm truyền của Tăng Tử. Trong sách Trung Dung, Tử Tư dẫn những lời của Khổng Tử nói về đạo "trung dung", tức là nói về cách giữ cho ý nghĩ và việc làm luôn luôn ở mức trung hòa, không thái quá, không bất cập và phải cố gắng ở đời theo nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, cho thành người quân tử, để cuối cùng thành thánh nhân.” Cách sống này còn được “diễn nôm” theo kiểu “khôn cũng chết, dại cũng chết, biết thì sống”.
Thật ra, không phải dễ đạt được lối sống Trung dung đâu. Cần phải có bản lĩnh và sự thấu nhận. Trung dung là dung hòa những cái thuận nghịch, mâu thuẫn trong cuộc đời để có thể sống tốt mình, đẹp đời. Nếu không cẩn trọng, người ta dễ trở thành ba phải hay bất cần đời.
Trung dung là một triết lý sống. Vì thế, nó có mặt trong mọi ngõ ngách cuộc sống.
Trong giới tính học, Trung dung là để chỉ giới tính thứ ba – cái giới tính mà:
Người kia chẳng gái, chẳng trai
Ngọt ngào làm vợ, lai rai làm chồng
Trong nhân tướng học, Trung dung là đi chàng hảng, hai hàng.
Trong bộ môn xiếc, Trung dung là kỹ năng làm xiếc con lăn.
Trong dân gian học, Trung dung là cái bập bênh.
Trong đo lường học, Trung dung là cái cân đĩa.
Trong lao động học, Trung dung là người có khả năng "bắt cá hai tay", thậm chí mỗi tay một con, hai chân còn tranh thủ khoèo thêm 2 con nữa.
Trong tình học, Trung dung là người “sáng chở cơm đi ăn phở, trưa đèo phở đi ăn cơm.”
Trong thiền học, Trung dung là một cách thiền lửng lơ con cá vàng, người ngồi thiền một mắt nhắm phiêu diêu, một mắt liếc coi nhất cử, nhất động của phu nhân mình.
Trong đạo học, Trung dung là nhà đạo sĩ ngồi dựa vào phu nhân xinh đẹp mà tu tiên.
Người bày ra cái vụ "dzô dziên" mà lại "có duyên" cũng ít nhiều bị ảnh hưởng bởi thuyết Trung dung.
Trong Gia đình THKT, Trung dung là Fan Club của cô Huỳnh Trung Dung – nữ chưởng môn phái Núi Bà Đen
Tương tự
Từ điển chính
thống giải nghĩa
"tương tự" là
giống nhau, na
ná nhau. Tiếng
Anh là similar.
Nhưng "tương tự"
còn là một danh
từ ghép chỉ một
sản vật.
"Tương" là một
thức ăn chay làm
từ đậu nành.
Tương hột đó.
Còn "tự" là
chùa. Vậy "tương
tự" là chỉ loại
tương hột làm
ở... chùa, để
phân biệt với
tương làm ở nhà!
Tử y và tử trực
Chữ "tử y" (tử:
chết, y: áo) để
gọi cái áo mặc
cho người chết.
Nhưng nó cũng là
món ăn khoái
khẩu của nhiều
người. Đâu, bạn
ra chợ cá Mộc
Hóa tìm mua vài
con ếch to đem
về nhờ bà xã nấu
cho nồi "cháo
ếch". Bây giờ,
bạn trổ tài nói
lái nhé: "cháo
ếch" tức "chết
áo", mà "chết
áo" dịch ra
tiếng Hán là "tử
y".
Chữ "tử trực"
(tử: chết, trực:
thẳng), nghĩa là
xác chết được để
nằm xuôi tay,
thẳng cẳng.
Nhưng nó cũng
chỉ một loại gia
vị quen thuộc.
Này nhé, "tử" là
"con", và "trực"
là "ngay". Vậy
"tử trực" là
"con ngay", mà
"con ngay" nói
lái là "cay
ngon". Chỉ có
trái ớt thì cay
mới ngon thôi! (NGUYỄN CÔNG
PHONG
bình "loạn")
Về hưu
Về hưu là một động từ được chia chung cho tất thảy thành viên Gia đình THKT. Người thì đã chia động từ này ở thời quá khứ (đã), người thì còn ở thời tương lai gần (sắp).
Về hưu có nghĩa là đã tới hạn hết tuổi lao động theo luật định của từng nước. Thí dụ, ở Việt Nam, tuổi hưu là 60 (nam) và 55 (nữ). Còn ở Mỹ, nam nữ đều 65 tuổi mới về hưu. Đó là tính trong trường hợp bình thường. Còn có những người nghỉ hưu non trước tuổi (hoặc tự nguyện, hoặc bị bắt buộc)
Về hưu, nghỉ hưu hay hưu trí đều cùng nghĩa, tiếnh Anh gọi là retire. Nhưng nhiều người thích dùng chữ "về hưu" hơn, bởi nó nhẹ nhàng, không gây cảm giác... "hết thời".
Cảm nhận và thái độ của người ta đối với về hưu có nhiều sắc thái, cung bậc:
- Kẻ tiêu cực: Híc, vậy là hết còn được làm việc nữa rồi.
- Người tích cực: Wow, mình đã hoàn thành nhiệm vụ của một đời người.
- Kẻ bi quan: Mình hết thời rồi, coi như tàn một kiếp người.
- Người lạc quan: Vậy là từ nay mình có quyền nghỉ ngơi, có thể dành nhiều thời gian hơn cho gia đình.
Những ai thuộc dạng tiêu cực và bi quan sẽ còn khổ sở, đau đớn hơn nữa nếu như trước khi về hưu thuộc hàng có chức, có quyền.
Những người có đủ thâm niên để hưởng trọn lương hưu hay hưởng mức lương hưu kha khá thì nhẹ nhàng, thoải mái hơn những ai có ít năm lao động.
Nhưng bất luận thế nào, người ta sẽ phải tốn thời gian, nhiều hay ít tùy từng tạng người, để làm quen với cuộc sống về hưu trong giai đoạn đầu. Bởi dù muốn hay không, về hưu cũng làm xáo trộn mọi nếp sinh hoạt nhiều chục năm qua.
Việc đầu tiên là tối hôm trước, ta quẳng cái đồng hồ báo thức đi, sáng mai có thể ngủ nướng tới... khét thì thôi!
Vọng cổ và vặn
cổ
Từ xưa tới nay,
bản vọng cổ
luôn được xem là
bản chủ lực của
nhạc tài tử cải
lương. Nó không
thể thiếu trong
bất cứ cuộc chơi
đờn ca tài tử
hay trên sân
khấu cải lương
nào. Về Đồng
Tháp Mười mà
thiếu câu vọng
cổ cũng giống
như cô thôn nữ
thiếu cái áo bà
ba. Bản vọng cổ
do nhạc sĩ Cao
Văn Lầu sáng tác
tại thị xã Bạc
Liêu. Từ cái tên
ban đầu là Dạ
cổ, nó được đổi
thành Dạ cổ hoài
lang rồi cuối
cùng là vọng cổ
như ngày nay.
Tất nhiên, bản
vọng cổ ngày nay
đã trải qua
nhiều cải biên.
(Xin
tham khảo).
Còn vặn cổ
là một động tác
tương tự như bẻ
cổ. Nhiều người
có thói quen vặn
vẹo, lúc lắc cái
đầu qua lại cho
các khớp cổ kêu
răng rắc, nói là
cho nó hết cứng
cổ. Ở ngữ nghĩa
tệ hại nhất, vặn
cổ có nghĩa là
làm cho gãy cổ.
Như vặn cổ gà,
hăm he nhau "tao
vặn cổ mày bây
giờ",...
Vậy thì cớ sao
lại tạt qua cái
vụ "vặn cổ" khi
nói về "vọng
cổ"? Bài hát
vọng cổ sẽ cực
kỳ mùi mẫn, chết
lòng người khi
được ca đúng bài
bản và có giọng
ca tốt. Còn nếu
không, vọng cổ
sẽ tra tấn người
nghe như thể là
bị "vặn cổ" vậy
đó! Tóm lại, hát
đúng, hát hay:
vọng cổ; hát
sai, hát dở: vặn
cổ!
Xuôi, xui và
suôi
Thầy Ngô Bảo
Toàn:
Thầy có một thắc
mắc nhỏ (như
con thỏ!) này
muốn nhờ Kiến MZ
"bình lọan"
giùm
thầy (chi phí
masage tay thầy
hoàn toàn... cam
chịu!). Số là
vầy: thầy có một
người bạn dạy
môn Văn và sau
này là nhà văn
có tên tuổi. Hôm
gặp nhau ở quán
cà phê máy
lạnh, bên ly cà
phê "ấy" chồn
thơm phức hòa
lẫn trong tiếng
nhạc du
dương, bạn thầy
tâm sự thế này:
Tôi có hai đứa
con. Thằng nếp
nhà tôi may mắn
cưới được con vợ
ngoan hiền. Tình
thông gia chúng
tôi không có gì
phải phàn
nàn, chê
trách. Anh Xuôi
tôi vui vẻ, chị
Xuôi tôi hiền
lành. Tội nghiệp
con tẻ nhà mình
lấy nhằm thằng
chồng nát
rượu, ham mê cờ
bạc! Đã thế, anh
Xui và chị Xui
này cũng không
ra gì. Rồi anh
thở dài và lẩm
bẩm: Suôi với
gia, rõ chán mớ
đời!
Kiến MZ ơi,
Thầy điên đầu
với anh bạn già
qua mấy chữ
Xuôi, Xui, Suôi?!
Vậy, em còn chần
chờ gì nữa mà
không "bình
loạn" giùm thầy
cho tỏ tường
(như cục... đường).
+ Thật ra thì
thầy Ngô Nguyên
Soái ăn thịt thỏ
ragu xong tráng
miệng bằng "cục
đường" rồi quăng
cục muối cho
Kiến MZ mà thôi.
Báo hại Kiến MZ
phải chạy về
động Bàng Tơ
thỉnh giáo Trạng
Quỳnh tổ sư.
Thật ra đây là
một kiểu chơi
chữ không chỉ có
tượng hình,
tượng thanh mà
còn cả tượng
cảnh (ngộ) nữa.
- Xuôi:
Có được rể hiền,
dâu ngoan này
đúng là "xuôi
chèo mát mái"
rồi.
- Xui:
Gặp phải ông rể
"trời đánh ba
búa mà vẫn nhăn
răng" và ông bà
"xui" không biết
điều như vậy quả
là "xui xẻo tận
mạng" rồi.
- Suôi:
Từ này chớ hề có
trong tiếng Việt
mà là một style đọc
từ "sui". Hình
như là kiểu phát
âm chữ "u" dài
của người Hà
Nội. Nó giống
như một sự dung
hòa giữa "xuôi"
và "xui", thôi
thì cam chịu
thôi, "xui" nào
cũng là "xuôi"!
Xin mở ngoặc nói
thêm: theo từ
điển, không có
chữ "xuôi
gia" hay "xui
gia" mà phải là
"sui gia".
|
|