|
Con đường dẫn đến
ngày 26 tháng 6 năm 2010
Tôi đã
thấy một thế giới khác
Chúng ta, từ vị trí của mỗi cá nhân, ai cũng có
một khởi điểm để đi tới Trung học Kiến Tường (THKT). Khởi điểm của
tôi là năm 1966, tôi được Bộ Giáo dục phái về THKT, tỉnh Mộc Hóa.
Mặc dù khi ấy đã 21 tuổi, nhưng tôi rất khờ khạo, vì tôi chưa bao
giờ ra khỏi nhà. Mộc Hóa không xa Sài Gòn cho lắm, nhưng đến được
nơi đó tôi phải mất một thời gian rất dài. Trước hết tìm ra bến xe
đi Mộc Hóa đã là một kỳ công. Các bác đạp xích lô không ai nghe thấy
tên Mộc Hóa bao giờ. Sau khi tìm ra bến xe, tôi lại khám phá ra xe
đò chỉ chạy đến cai Lậy. Từ Cai Lậy phải dùng xuồng (dân địa phương
gọi là tắc ráng) đi vào Mộc Hóa. Năm ấy cả vùng Đồng Tháp đang bị
lụt. Khi tắc ráng ra khỏi Cai Lậy, tứ bề bỗng mở ra, nước tràn ngập
mênh mông như biển hồ. Tôi lạnh người nhận ra xuồng của mình đang
lướt đi trên một cánh đồng lúa. Những ngọn lúa chín vàng nghiêng ngả
theo làn sóng ở dưới nước sâu. Tôi sững sờ nghĩ thầm, vậy là chết
đói đến nơi rồi. Nước trong vắt nhìn thấu đất. Sau này tôi mới biết
đây là vùng đất có phèn nên nước trong như lọc. Thỉnh thoảng xuồng
đi qua một bụi tràm, tôi hãi hùng thấy có rắn và trăn đeo lủng lẳng
trên cành. Xa xa có con trâu lạc bơi trong nước. Cảnh vật thật xa lạ
và bi thảm đối với tôi.

Ảnh chụp trước cổng trường Trung học
Kiến Tường ngày 6-6-1967. Từ trái: bạn Em, thầy Nguyễn Xuân
Kỳ, bạn Sự (đứng phía sau), thầy Đỗ Ngọc Trang, các bạn
Thắng (đứng sau), Thành, Răng, Quân, và Luận. (Ảnh do
thầy Đỗ Ngọc Trang - cô Nguyễn Thị Bích Thủy cung cấp ngày
30-3-2010)
Cuối đường tôi cũng tới Kiến Tường. Tôi vẫn
phải dùng xuồng đi vào nhiệm sở. Qua chiếc cổng trường đơn sơ, tôi
thấy ba dãy nhà bao quanh một chiếc sân lớn. Đó là sân trường, nhưng
nay chỉ là một hồ nước hoang sơ. Tôi ra mắt ông hiệu trưởng và các
bậc giáo chức tiền bối của tôi. Tôi thấy người nào cũng vĩ đại. Về
đoạn này thầy Tính đã kể rồi nên tôi không nhắc lại nữa. Thế là tôi
được nhập đoàn với ban giáo chức. Tôi và một số thầy tạm trú trong
trường. Chúng tôi kê bàn ghế lên cao tự làm chỗ ngủ cho mình. Tôi đã
không ngủ được trong những đêm đầu tiên ấy.
Một thời gian sau, văn phòng tỉnh trưởng phái
chúng tôi đến quận Kiến Bình cứu trợ dân lụt. Chúng tôi ở trọ trên
một căn gác nhỏ. Tầng dưới của căn gác đang chìm trong nước. Hình
như chúng tôi đã ở đó một tuần. Thức ăn chính của chúng tôi từ sáng
đến tối chỉ có vịt, ngày nào cũng vậy. Vịt ở đây nhiều vô kể, có lẽ
ăn hoài không hết. Cũng tại đây tôi đã tưởng mình sắp chết khi khám
phá ra một con đỉa nằm giữa kẽ hai ngón chân từ hồi nào. Nhắc lại ở
đây có lẽ các bạn sẽ phì cười. Tôi không nghĩ ai trong trường hợp
của tôi lúc ấy lại có thể cười được.
Tôi đã
được tái sinh
Tôi không nhớ khoảng bao lâu sau đó, Thủy Tinh
dẫn nước và những thủy quái của ông rút lui. Rồi cuối cùng, việc gì
đến cũng phải đến. Buổi sáng hôm ấy tôi hồi hộp mặc quần áo chỉnh
tề, tay ôm tập sách bước vào lớp học. Trong giây phút đầu tiên đứng
trên bục giảng bài, cả tôi lẫn các em nhỏ đều trố mắt im lặng nhìn
nhau. Thời gian ngưng đọng. Tất cả mọi thứ đều mới như trong ngày
thứ nhất trong đời. Ánh nắng, sách vở, bút mực, quần áo, không gian
và thời gian, tất cả cô đọng lại để chờ đợi một lời chào khai mạc.
Lần đầu tiên tôi nghe thấy tiếng nói của chính mình vang lên. Lần
đầu tiên tôi thấy những ánh mắt là những cửa sổ linh hồn, như trong
văn thơ người ta vẫn nói. Lần đầu tiên tim tôi biết thổn thức yêu
thương.
Tôi tin là Thượng Đế, trong tình yêu của Người,
đã bắt đầu sự nghiệp của tôi từ một lớp đệ thất, gồm những em nhỏ
mới lên trung học. Đã quá lâu, tôi không nhớ đó là lớp nào. Xin cám
ơn các em, những người có tâm hồn rất gần với thiên tính.
Trong thời gian đầu sống với THKT, có lẽ vì tôi
chưa thực sự là người lớn, nên tôi không đóng được vai trò ông thầy.
Tình của tôi đối với các em học trò rất gần với tình bằng hữu. Chúng
tôi nói chuyện với nhau ngang hàng và tự nhiên. Câu truyện của tôi
và em Lâm Phước Thành là một thí dụ điển hình.
Truyện này tôi
đã có dịp kể rồi nên không nhắc lại ở đây. Nhờ sự gần gũi này, chỉ
sau một niên học, những tư tưởng triết lý hiện sinh không còn ám ảnh
tôi nữa. Những kiến thức vô định hướng đó không phải là vô ích.
Chính nhờ chúng mà tôi nhận ra cái sai lầm và sự sống chân thật
trong dạng đơn sơ nhất. Chính các em học sinh đã gọt dũa tôi. Tuy
nhiên, các em học trò cũ thân yêu cũng đã gọt dũa tôi hơi mạnh. Có
một lần trong giờ dạy về thơ Đường luật, tôi viết lên bảng một bài
thơ chữ Hán. Viết xong, quay mình nhìn xuống lớp, tôi thấy các em
ngó lơ. Tôi chợt hiểu mình đã đi quá xa. Tôi cụt hứng và từ đó tôi
không còn đụng tới chữ Hán nữa.

Đi
chơi trên sông Vàm Cỏ Tây (khúc sông này gần nhà bạn Bửu).
Từ trái qua phải: thầy Nguyễn Xuân Kỳ, bạn Sử, thầy Đỗ Ngọc
Trang, bạn Em, bạn Chiến, bạn Thành. Ảnh chụp ở Kiến Tường
1967. (Ảnh do thầy Đỗ Ngọc Trang - cô Nguyễn Thị
Bích Thủy cung cấp ngày 30-3-2010)
Chung
một sân trường
Tỉnh Mộc Hóa là cửa ngõ đi vào nước Cambodia,
nên tỉnh trở thành cứ điểm quân sự quan trọng. Cách trường không tới
một cây số là một trại lính Mỹ với một phi trường lớn. Nhưng chẳng
cần sự có mặt của họ, tiếng súng hằng đêm vẫn nhắc chúng tôi về thời
loạn.
Tuy nhiên THKT hiện hữu như một ốc đảo thanh
bình. Qua khỏi cổng trường, như một phép lạ, có một sân trường cỏ
xanh với những tà áo trắng hồn nhiên tung tăng khắp nơi. Ba dãy
phòng bao quanh như những cách tay ôm ấp che chở chiếc sân trường.
Các em học trò và tôi đã chôn giấu những kho tàng dưới lá cỏ trong
mảnh sân ấy. Tâm hồn chúng tôi đã trưởng thành trong chiếc nôi đó.
Tôi tin rằng, cũng như tôi, các em học trò đã bỏ lại ngoài cổng
trường tất cả những vấn nạn rắc rối của cuộc đời. Trong sân trường
chỉ có những tiếng cười, những bước đi sánh đôi, và những tâm tình
không thể tìm được ở những nơi khác.
Có em đến xin trở thành đệ tử của tôi. Tôi biết
trong trí của em tôi là một sư phụ theo bóng dáng một vị đại ca
giang hồ nào đó. Có em sáng tác một bản nhạc và muốn tôi đặt lời ca.
Có em đến tận nhà để thăm tôi vào dịp hè. Phải chăng các em cũng
không thấy tôi là một thầy giáo của chữ nghĩa và giới hạn trong bốn
vách của phòng học. Trong trí tưởng tượng của các em, tôi là một mẫu
người nào đó mà các em muốn tìm. Tôi trân trọng bảo vệ những tâm tư
thầm kín của các em vì đó là những tình cảm chân thật nhất của tình
người. Chúng tôi đã chia sẻ và nâng đỡ nhau với những gì đẹp nhất
của năng lực sống. Nó bắt đầu bằng nụ cười, bằng ánh mắt nội tâm, và
dấu ấn của sự trưởng thành. Vẻ đẹp của nó tuyệt diệu đến mức không
thể lặp lại lần thứ hai trong lịch sử của đời mình. Sau này tôi có
dạy học ở nhiều trường sở khác, nhưng tôi hoàn toàn chỉ là một ông
thầy truyền bá trí thức mà thôi.
Có một thời nối
tiếp
Tôi thích khóm từ “Once upon a time in Trung
học Kiến Tường”. Câu này không gợi ra một ảo ảnh dĩ vãng, nhưng hiện
tại hóa nét vàng son của dĩ vãng. Nhờ vậy tôi không phải quay đầu
nhìn lại quá khứ nhưng vẫn thấy sự nối tiếp của nó ở trước mặt. Tôi
gọi nhận thức này là cảm nhận Janus. Quá khứ hiển hiện cụ thể qua
cuộc tìm kiếm thầy xưa và trò cũ. Thầy xưa bạn cũ sẽ cùng trở về
thăm sân trường cũ, để tìm lại kho tàng ngày nào mình giấu trong đó.
Đó là ngày “Trở lại mái trường xưa”, thứ Bảy 26 tháng 6 năm 2010.
Tôi và những người ở xa, nhờ hệ thống thông tin qua website THKT,
đều coi như gián tiếp có mặt trong buổi đại hội này.
Tính tôi lãng mãn, tôi thường nghĩ rằng, chúng
ta như lén ra khỏi đinh mệnh để dạo chơi một vòng rồi trở về kể cho
nhau nghe những cuộc viễn du kỳ thú đã qua. Rồi “như mơ” (chữ của
thầy Cao Thành Phát), ai cũng “xưa trẻ nay già” (chữ của Phạm Hồng
Phước). Chúng ta sẽ thích thú nhìn lại nhau, để tìm cái nét mặt mình
vẫn còn lưu trữ trong ký ức. Từ đó chúng ta mới trân trọng những gì
đã xảy ra trong đời mình. Giữa chúng ta có một khoảng thời gian gián
đoạn, nhưng chúng ta lại “chưa hề chia tay” (lời của thầy Võ Xuân
Sơn).
Cũng như tôi, mỗi người trong chúng ta, ai cũng
có một điểm khởi hành, để rồi có vài niên học sống với nhau, rồi có
vài giờ để chia tay. Sau đó có cả một đời để nhớ. Đó là điểm đến của
chúng ta.
ĐỖ NGỌC TRANG
(Elk Grove, CA, Mỹ, 14-6-2010)
|
|