Lần theo mê lộ có đường hầm của hệ
thống tiền tệ Mỹ
II. Một chút lịch sử
Hỏi:
Từ đâu, tại sao, và từ hồi nào mới có cái quái thai đó?
Đáp: Anh nói là “quái thai”
thì cũng đúng, nhưng giới học giả Mỹ thường ví FED như
một con “hydra”. Theo từ điển, hydra là một con rắn có
chín đầu (trong thần thoại) hễ chặt đầu này thì nó mọc
đầu khác, và nó có nhiều cái vòi (tentacles) rất dài để
bắt mồi từ xa. FED (con hydra dưới hình thức hiện tại)
sanh ra nhờ cái Federal Reserve Act năm 1913 do TT
Woodrow Wilson ký (về sau ông ta hối tiếc). Còn từ đâu
và tại sao có nó thì phải xem lại hết cái lịch sử của
HCQHK vì trong dĩ vãng nó cũng đã bị chặt đầu nhiều lần,
mỗi lần lại sống lại với một tên khác.
Hỏi:
Anh có thể tóm tắt cho chúng tôi biết một chút không?
Đáp: Tôi sẽ cố gắng tóm lược
tối đa một câu chuyện dài mấy thế kỷ và chiếm vài trăm
trang trong mỗi cuốn sách nói đến chuyện ấy mà tôi có
dịp đọc.
Ở trung học,
chúng ta học trong sách rằng HCQHK hồi xưa là 13 thuộc
địa của Anh Quốc. Đến năm 1774, để phản đối việc mẫu
quốc Anh đánh thuế vào trà (tea tax), một buổi tiệc trà
được tổ chức ở Boston (Boston Tea Party). Trong dịp đó
một số người Mỹ giả làm người da đỏ nhảy lên tàu chở trà
và vất các thùng trà xuống biển. Bị chính quyền cai trị
đàn áp, những đoàn dân quân được thành lập để chống trả
lại, và ông Benjamin Franklin triệu tập một hội nghị gọi
là Congress ở Philadelphia để đưa ra “Bản Tuyên ngôn
quyền của người Mỹ có đóng thuế” (Delaration des Droits
du Contribuable Americain) năm 1774. Sau đó, với sự
chiến thắng của đoàn dân quân của Massachusetts,
Congress cho ra Bản Tuyên ngôn Độc lâp (Déclaration
d’Indépendance ngày 4-7-1776). Rồi dưới sự chỉ huy của
Tướng George Washington, quân Mỹ đánh thắng quân Anh
dưới quyền Tướng Cornallis ở Georgetown năm 1781, và
theo Hòa ước Versailles năm 1785, Anh Quốc công nhận cho
HCQHK độc lập.
Nhưng sau này
một số học giả, sau khi đọc kỹ lại những tác phẩm của
chính ông Benjamin Franklin viết hồi thời ấy, mới thấy
là sự thật phức tạp hơn nhiều.
1. Vì không có tiền vàng hay bạc,
nên kể từ năm 1691, các thuộc địa của Anh trên đất Mỹ
phát hành tiền giấy gọi là “Colonial Scrip” để trả lương
cho công chức và để cho dân xài trong việc mua bán trao
đổi hàng hóa trả tiền công v.v. Mà người chủ nhà in lại
chính là ông Benjamin Franklin, người làm việc cho dân,
vì dân, không tìm cái lời cái lợi trong việc in giấy bạc
nên chỉ phát hành đúng theo nhu cầu, cần bao nhiêu thì
phát hành bấy nhiêu, nên không cần lấy thuế của dân để
chính phủ có tiền, mà không tạo ra sự lạm phát
(inflation) hay sự kém phát (deflation) nên giá sản vật
và giá công (product and service) vẫn được điều hòa và
thăng bằng, nhờ vậy mà các thuộc địa trở nên rất phồn
thịnh, không có thất nghiệp, không có ăn mày, trong lúc
mà ở London của mẫu quốc ngoài đường có đầy ăn mày và
người đi lang thang lêu lỏng (The streets are covered
with beggars and tramps). Do vậy các chủ nhà bank Anh
(the British bankers) lobby (vận động) triều đình, nên
năm 1751, vua George II ra lệnh cấm các thuộc địa phát
hành tiền giấy, mà phải dùng tiền “coin” của mẫu quốc
(do các nhà bank Anh đã hợp thành một thể dưới tên là
Bank of England phát hành). Vua George III kế vị vua cha
từ năm 1752 giữ nguyên lệnh ấy. Các thuộc địa bị ảnh
hưởng tai hại. Vì thiếu tiền coin (do mẫu quốc siết để
tạo sự kém phát - deflation), người làm ruộng hay trồng
tỉa không có đủ tiền mướn người làm nên lúa không ai
gặt, trái không ai hái. Người có hãng xưởng không đủ
tiền mướn thợ, hàng hóa không được sản xuất. Cả dân
trong một vùng đất rộng lớn của 13 thuộc địa bị nghèo
đói, không gia đình nào không bị ảnh hưởng, nên họ đứng
lên chống đối chính quyền và đó là nguyên do sâu xa của
cuộc Cách mạng Mỹ năm 1774. Cái”Boston Tea Party” chỉ là
giọt nước làm tràn cái bình.
2. Việc đầu tiên Congress làm là
phát hành tiền giấy được gọi là “the Continental” dưới
hình thức IOU (I owe you), nghĩa là giấy nợ mà chíánh
phủ cách mạng cam kết sẽ trả lại bằng tiền coin (vàng
hay bạc) sau này. Có chừng 200 triệu dollar dưới hình
thức “continental scrip” được phát hành để chi phí cho
cuộc chiến giành độc lập. Mẫu quốc phản ứng bằng cách in
tiền giả để đổ ào ạt vào thị trường các thuộc địa, gây
ra môt cuộc đại-lạm-phát, làm cho đến ngày độc lập tiền
“the Continental” hầu như không còn giá trị gì hết. Thế
là mẫu quốc thua trên chiến trường, nhưng thắng trên mặt
trận kinh tế (dính liền với tài chánh).
Tiền Continental mệnh giá 1/3
USD.
3. Vì thấy tiền Continental gần như
không còn giá trị, nên các nhà “Quốc phụ lập quốc (the
Founding Fathers) không còn tin tưởng nơi giấy bạc, nên
trong Hiến pháp được viết ra, các ngài không nói tới
tiền giấy mà ghi rằng Congress có quyền “coin money”
(thay vì “create money”) và có quyền vay tiền dựa trên
uy tín của chính phủ (“and to borrow money on the credit
of the United States). Các nhà bank của mẫu quốc Anh cũ,
là các ngân hàng tư nhân Anh Quốc xâm nhập vào HCQHK tạo
dựng US Bank theo mẫu của England Bank. Mà England Bank
từ thời thành lập cho đến ngày hôm nay là do các nhóm
tài phiệt tư nhân gốc gác Hà Lan nắm và chính các nhóm
này xâm nhập vào hệ thống US Bank, khai thác lỗ hở to
tát đó (the enormous loophole) mà nói rằng chiếu theo
Hiến pháp, chính phủ chỉ có quyền phát hành coin và nhà
bank có quyền phát hành tiền giấy. Vì tiền coin thì cồng
kềnh và quá nặng khi cần tới nhiều, nên nhà bank in giấy
cam kết sẽ trả lại đúng số coin (bằng vàng hay bạc) ghi
trên giấy, và người dân chấp nhận coi những giấy ấy như
là tiền.
4. Rồi với thời gian qua, các nhà
bank để ý rằng rất ít người trở lại nhà bank để đòi lấy
lại đồng tiền coin. Trung bình hàng năm chỉ có độ 10%
người làm việc đó, còn 90% người còn lại thì không bao
giờ thấy đến đòi lấy lại tiền coin. Bởi vậy nhà bank
nghĩ rằng mình có thể phát hành thêm 90% nữa mà không
sao. Đó là nguồn gốc của cái gọi là “fractional reserve”
dẫn tới việc phát hành tiền ma.
5. Tổng thống Thomas Jefferson
(1801-1809), vị TT thứ ba của Mỹ, thấy cái nguy hại cho
đất nước và gọi liên đoàn các nhà bank (the banking
cartel) là ”một con quái vật ăn thịt ngưởi có cái đầu
của con hydra” và ông nói rằng “Nếu dân Mỹ để cho nhà
bank kiểm soát việc phát hành tiền tệ của mình, thì
trước hết bằng sự lạm phát (inflation) rồi bằng sự kém
phát (deflation), các nhà bank và các công ty
(corrporation) sẽ phát triển và tước đoạt hết tài sản
của dân, thì con cháu chúng ta sẽ thức dậy vô gia-cư,
trên cái lục địa mà cha mẹ của chúng đã chiếm được.” Nên
năm 1811, Congress không chấp nhận tái bản cho đặc quyền
(renew the charter) cho First U.S.Bank. Hậu quả chiến
tranh với Anh Quốc (the War of 1812) bùng nổ. Chiến
tranh đưa quốc gia đến sự lạm phát (inflation) và nợ nần
(debt). Vì những lý do đó, Tổng thống James Madison
(1809-1817), vị TT thứ tư của Mỹ, phải ký một đặc quyền
20 năm (a twenty year charter) cho Second Bank of The
United States vào năm 1816.
6. Tổng thống Andrew Jackson
(1829-1837), vị TT thứ bảy của Mỹ, phú quyết (veto) dự
luật của Congress cho phép tiếp tục ban đặc quyền cho
Second Bank of the United States. Trong bản veto, ông
viết: ”Không có cái gì nguy hại cho sự tự do và độc lập
của chúng ta hơn là khi mà hệ thống nhà bank nằm trong
tay của người ngoại quốc. Kiểm soát tiền tệ của chúng
ta, lấy tiền của dân ta, và bắt cả ngàn công dân của
chúng ta phải lệ thuộc, thì còn đáng sợ hơn và nguy hiểm
hơn là một thủy binh hay một quân đội của địch”.
Nhưng ông
cũng biết cái veto chỉ là bước đầu của cuộc chiến với
nhà bank nên ông nói: “Con hydra của sự đồi bại mới bị
chận lại chớ chưa chết”. Ông ra lệnh cho Bộ trưởng Tài
chánh (Treasury Secretary) mới của ông chuyển hết tiền
deposit của chính phủ từ Second US Bank qua các nhà bank
của tiểu bang (state bank). Nhưng ông này từ chối không
làm. TT bèn cách chức ông ấy, và bổ nhiệm một người khác
Ông này cũng từ chối không làm thì TT Jackson bổ nhiệm
người thứ ba. Ông này thi hành lệnh nên TT Jackson vui
mứng mà nói: “Tôi đã trói được con quái vật rồi”. Nhưng
ông chủ nhà bank lobby được Thượng viện không chấp
thuận người được tổng thống bổ nhiệm và gây ra một cuộc
khủng hoảng kinh tế với việc siết chặt sự cung cấp tiền,
để tạo ra một sự kém phát (deflation) bằng cách hồi
(call in) các “loan” cũ, không cho thêm “loan” mới, nên
một sự hoảng hốt tài chính (a financial panic) xảy ra
trong dân chúng, thì báo chí lại trút tội xuống đầu tổng
thống Jackson. Nhưng may thay, Thống đốc bang
Pennsylvania (là nơi có trụ sở của nhà bank) xuất hiện
để ủng hộ TT Jackson và phê bình nhà bank rất gắt gao và
kế hoạch làm lũng đoạn kinh tế của nhà bank bị phơi bày
trước công chúng.
Cho nên đến
tháng 4-1834, Hạ Viện (House of Representatives) với 134
phiếu thuận và 82 phiếu chống, đã hủy bỏ việc tái bản
đặc quyền (rechartering) cho Second U.S. Bank. Đến tháng
1-1835 thì TT Jackson trả được hết các khoản nợ của
chính phủ. Rồi ngày 30-1-1835, khi TT Jackson đến
Capitol để dự tang lễ của Dân-biểu Warren R. Davis của
South Carolina thì ông bị mưu sát bởi một tên thợ sơn
“điên”(?) núp trong một phòng lớn hình tròn cách ông có
sáu feet, nhưng bắn hai phát đều trật. Nhưng sau khi TT
Jackson đóng cửa nhà bank trung ương (Central Bank) thì
tiền giấy được dùng là những banknote của của các nhà
bank tư của các tiểu bang, hứa sẽ trả lại bằng vàng hay
bạc chớ không phải là tiền của quốc gia (national
currency).
7. Sau TT Jackson, ông tổng thống
dám đánh con hydra tiền tệ là TT Abraham Lincoln
(1861-1865), vị TT thứ 16 của Mỹ. Liền sau khi ông đắc
cử và trước khi ông nhậm chức thì Nội chiến Nam-Bắc (The
Civil War) bùng nổ (1860) vì vấn đề “nô lệ” (slavery).
Các nhà bank của vùng Đông (tức là thuộc về Union) đề
nghị cho chính phủ vay 150 triệu USD với lãi suất quá
nặng từ 24 tới 26%. T T Lincoln từ chối và quyết định
chính phủ sẽ in tiền lấy. Tiền in ra có tên chính thức
là “United Note’ nhưng dân chúng quen gọi là “Greenback”
vì phía sau in bằng mực màu xanh lá cây. Tiền được quan
niệm không phải là một giấy nợ (IOU) với cam kết trả lại
bằng vàng hay bạc, mà là một tờ giấy chứng nhận công lao
cho xã hội. Công lao sản xuất (product) từ lúa gạo, trái
cây cho tới vải sồ và vật dụng, công lao dịch vụ
(service) từ thợ, cai, đến giám đốc, công lao bảo vệ an
ninh trật tự, và gìn giữ đất nước, từ lính cảnh sát đến
lính và sĩ quan trong quân đội, công lao điều khiển bộ
máy cai trị, từ thư ký đến giám đốc đến nguyên thủ quốc
gia. Lãnh lương là lãnh giấy chứng nhận công lao, để mua
thức ăn đồ dùng là trao giấy chứng nhận công lao của
mình để nhận lấy món hàng được sản xuất với công lao
tương đương của người bán.
Vì tiền được
in ra vừa đúng nhu cầu của dân, cho dân, và vì dân, chớ
không phải cho hay vì tư lợi nào hết, cũng như hồi thời
ông Benjamin Franklin lúc Hoa Kỳ còn là 13 thuôc địa
phồn thịnh, nên trong có bốn năm tại chức mà ngoài việc
chiến thắng loạn miền Nam được Anh giúp tiền, và việc
giải phóng bốn triệu người nô lệ, TT Lincoln đã thực
hiện cho nước Mỹ những công tác vĩ đại như: xây dựng và
võ trang một quân đội lớn nhất thế giới lúc bấy giờ,
biến Hoa Kỳ thành một nước kỹ nghệ khổng lồ (industrial
giant), kỹ nghệ thép (steel industry) được thành lập,
một hệ thống hỏa xa xuyên lục địa được xây dựng, Bộ Canh
nông được thành lập để thúc đẩy việc chế tạo máy và dụng
cụ làm ruộng rẻ tiền, một hệ thống đại học miễn phí được
thành lập nhờ Land Grant College System, lập lên những
bộ máy hành chánh cho các vùng miền Tây, tăng mức sản
xuất lao động (labor productivity) lên từ 50 đến 75 %.
Tất cả những việc ấy thực hiện được là nhờ có một việc
rất giản dị là chính chính phủ phát hành tiền. Tức là
cái đầu của con hydra tiền tệ đã bị TT Lincoln chặt.
Nhưng đến
ngày 14-4-1865 thì một kịch sĩ tên là John Wilkes Booth
ám sát TT Lincoln trong lúc ông đang xem tuồng hát Our
American Cousin trong rạp hát Ford’s Theatre ở
Washington. Thế là con hydra lại có cơ mọc đầu lại. Và
đầu nó mọc lại thật, vì dân vẫn thích có tiền vàng nên
tiền greenback mất giá dần dần đối với đồng tiền dollar
vàng. Các nhà bank phát hành banknote bảo đảm trả lại
bằng vàng. Dân chúng tin nên dùng những banknote đó như
tiền thật, cho tới năm 1913 thì một con hydra mới xuất
hiện nhờ luật Federal Reserve Act 1913.
BS. NGUYỄN LƯU VIÊN
TT Colo
tìm chọn và chia sẻ