Người thầy đầu tiên
Tác phẩm bất hủ của
nhà văn Chingiz Aitmatov
|
Người thầy đầu tiên
là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của
đại văn hào Aitmatov. Tác phẩm này đã được đưa
vào giảng dạy ở nhiều nước trên thế giới, trong
đó có Việt Nam. |
|
Nhà văn Chingiz
Torekulovich Aitmatov sinh ngày 12-12-1928 tại
làng Sheker, vùng tây bắc Kyrgyzstan. Năm 1935,
gia đình ông chuyển đến Matxcơva, Nga.
|
|
Aitmatov bắt đầu nổi tiếng
từ năm 1958 với cuốn tiểu thuyết Jamilya.
Lấy bối cảnh Thế chiến thứ hai, tác phẩm là câu
chuyện về một phụ nữ trẻ người Kyrgyz dám bỏ
chồng để chạy theo một cựu quân nhân. Jamilya
từng làm dấy lên những cuộc tranh luận tại cộng
đồng Hồi giáo cũng như ở các nước tồn tại nam
quyền về việc liệu một phụ nữ có nên bỏ chồng vì
một người đàn ông khác. Tuy nhiên, nhà thơ Pháp
nổi tiếng Louis Aragon ca ngợi, Jamilya
là “thiên tình sử hay nhất mọi thời đại”.
3 năm sau khi chuyển tới
Matxcơva, Torekul Aitmatov - thân sinh của nhà
văn - bị đưa đi cải tạo rồi xử tử. 60 năm sau,
thi thể ông mới được tìm thấy trong một ngôi mộ
tập thể ở miền Bắc Kyrgyzstan. Tấn bi kịch cá
nhân này đã in dấu vào rất nhiều tác phẩm của
Aitmatov, như tiểu thuyết Đoạn đầu đài ra
đời năm 1986.
Trong văn nghiệp của mình, Aitmatov từng đoạt
giải thưởng Lênin (1963) và 3 giải thưởng Nhà
nước (1968, 1977, 1983). Tuy đoạt rất nhiều giải
thưởng và những vinh quang văn học nhưng trước
sau, Aitmatov, theo đánh giá của nhà văn Nga
Viktor Yerofeyev, vẫn là một con người “trung
thực, khiêm nhường và liêm khiết”.
Nhà văn Aitmatov mất chiều
10-6-2008 tại Nuremberg (Đức), nơi ông được đưa
tới điều trị bệnh viêm phổi gần một tháng trước
đó. Tang lễ ông được tổ chức ngày 14-6 tại
Biskek, Kyrgyzstan.
|
|
Phần 1
Tôi mở tung cánh cửa sổ.
Một luồng gió mát lùa vào phòng. Trong ánh lê minh xanh nhạt
đang sáng dần, tôi nhìn kĩ những bản nghiên cứu phác thảo của
bức tranh tôi vừa khởi công làm. Những bức vẽ ấy nhiều lắm và
tôi đã nhiều lần vẽ đi vẽ lại từ đầu. Nhưng bây giờ mà nói đến
toàn bộ bức tranh thì hãy còn sớm. Tôi vẫn chưa tìm được cái
chính, cái gì giờ đây đang vụt đến với tôi một cách bất ngờ,
không gì kìm hãm được, mỗi lúc thêm rõ rệt, với một âm vang mơ
hồ khó hiểu trong tâm hồn, tựa như những tia sáng đầu tiên của
buổi lê minh và cứ suy nghĩ, suy nghĩ mãi. Và lần nào cũng đều
như thế. Lần nào tôi cũng lại thấy rõ ràng bức tranh của tôi mới
chỉ là một ý đồ.
Tôi vốn không phải là kẻ
ưa nói trước hay báo tin cho bạn bè, ngay cả bạn thân, biết
trước về một tác phẩm còn dang dở. Chẳng phải vì tôi quá ư nâng
niu tác phẩm của mình, mà chỉ vì tôi nghĩ khó lòng đoán biết
được đứa bé hôm qua còn nằm trong nôi sẽ lớn lên thành người như
thế nào. Nói đến một tác phẩm dở dang, chưa hoàn thành, cũng khó
như thế. Nhưng lần này tôi rời bỏ nguyên tắc: tôi muốn nói lên
cho mọi người nghe thấy, đúng hơn là trao đổi với mọi người
những ý nghĩ của tôi về bức tranh còn chưa vẽ xong.
Đó không phải là một ý
muốn nông nổi. Tôi không thể làm khác, vì tôi cảm thấy một mình
tôi không đủ sức đương nổi gánh nặng này. Câu chuyện đã làm rung
động tâm hồn tôi, câu chuyện đã thúc giục tôi cầm lấy bút vẽ,
tôi thấy nó lớn lao đến nỗi chỉ riêng lòng tôi thôi thì không
sao chứa đựng nổi. Tôi sợ làm sánh mất bát nước đầy, không sao
được đến tận tay các bạn. Tôi muốn mọi người khuyên nhủ giúp
tôi, mách bảo tôi cách giải quyết, tôi muốn mọi người, dù chỉ là
trên dòng tư tưởng, dừng lại cạnh tôi bên giá vẽ, cùng rung cảm
với tôi.
Xin đừng tiếc hơi ấm đang
nồng nàn trong tim các bạn, hãy lại gần đây, thế nào tôi cũng
phải kể lại câu chuyện này…
******************************
Làng Kurkurêu chúng tôi
nằm ven chân núi, trên một cao nguyên rộng có những khe nước ào
ào từ nhiều ngách đá đổ xuống. Phía dưới làng tôi là thung lũng
Hoàng Thổ, là cánh thảo nguyên Karakh mênh mông nằm giữa các
nhánh của rặng núi Đen và con đường sắt làm thành một cái thảm
màu băng qua đồng bằng chạy tít đến chân trời phía tây.
Phía trên làng tôi, giữa
một ngọn đồi, có hai cây phong lớn. Tôi biết chúng từ thuở bắt
đầu biết mình. Dù ai đi từ phía nào đến làng Kurkurêu chúng tôi
cũng đều trông thấy hai cây phong đó trước tiên; chúng luôn luôn
hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi. Thậm
chí tôi cũng không biết giải thích ra sao: phải chăng người ta
vẫn đặc biệt trân trọng nâng niu những ấn tượng thời thơ ấu hay
vì do có liên quan đến nghề hoạ sĩ của tôi, nhưng cứ mỗi lần về
quê, khi xuống xe lửa đi qua thảo nguyên về làng, tôi đều coi
bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt tìm hai cây phong thân thuộc
ấy.
Dù chúng có cao đến đâu
chăng nữa, đứng xa thế cũng khó lòng trông thấy ngay được, nhưng
tôi thì bao giờ cũng cảm biết được chúng, lúc nào cũng nom rõ.
Đã bao lần tôi từ những
chốn xa xôi trở về Kurkurêu và lần nào tôi cũng thì thầm với một
nỗi buồn da diết: “Ta sắp được thấy chúng chưa, hai cây phong
sinh đôi ấy? Mong sao chóng về tới làng, chóng lên đồi mà đến
với hai cây phong. Rồi sau đó cứ đứng dưới gốc cây để nghe mãi
tiếng lá reo cho đến khi say sưa ngây ngất”.
Trong làng tôi không thiếu
gì các loại cây, nhưng hai cây phong này khác hẳn: chúng có
tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, một tâm hồn
chan chứa những lời ca êm dịu. Dù ta có tới đây vào lúc nào, ban
ngày hay ban đêm, chúng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá
cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau.
Có khi tưởng chừng như một
làn sóng thuỷ triều dâng lên vỗ vào bãi cát, có khi lại nghe như
một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm chuyển qua lá cành như
một đám lửa vô tình, có khi hai cây phong bỗng im bặt một
thoáng, rồi khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một hơi như
thương tiếc người nào. Và khi mây đen kéo đến cùng với bão
giông, xô gãy cành, tỉa trụi lá, hai cây phong nghiêng ngả tấm
thân dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc chảy rừng rực. Và
trong tiếng gầm bất khuất của chúng ngỡ chừng như nghe thấy một
lời thách thức ngỗ ngược: “Không, đừng hòng bắt ta phải khom
lưng khuất phục, đừng hòng bẻ gãy thân ta”.
Bao nhiêu năm qua. Sau
này, tôi đã hiểu được điều bí ẩn của hai cây phong. Chẳng qua
đứng trên đồi cao lộng gió nên đáp lại bất kì chuyển động khe
khẽ nào của không khí, mỗi chiếc lá nhỏ đều nhạy bén đón lấy mọi
làn gió nhẹ thoảng qua.
Nhưng việc khám phá ra
chân lí giản đơn ấy cũng vẫn không làm tôi vỡ mộng xưa, không
làm tôi bỏ mất cách cảm thụ của tuổi thơ mà tôi còn giữ đến nay.
Và cho đến tận ngày nay tôi vẫn thấy hai cây phong trên đồi có
một vẻ sinh động khác thường. Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy,
bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh…
Cứ vào cuối năm học, trước
khi bắt đầu nghỉ hè là bọn con trai chúng tôi lại chạy ào lên
đây phá tổ chim. Cứ mỗi lần chúng tôi reo hò, huýt còi ầm ĩ chạy
lên đồi là hai cây phong khổng lồ lại nghiêng ngả đung đưa như
muốn chào mời chúng tôi đến với bóng râm mát rượi và tiếng lá
xào xạc dịu hiền. Và chúng tôi, lũ ranh con đi chân đất, công
kênh nhau bám vào các mắt mấu và cành cây trèo lên cao làm chấn
động cả vương quốc loài chim. Hàng đàn chim hoảng hốt kêu lên,
chao đi chao lại trên đầu. Nhưng chúng tôi vẫn chưa coi vào, đến
đây đã thấm gì!
Chúng tôi cứ leo lên cao
nữa – nào, xem ai can đảm và khéo hơn! – và từ trên những cành
cao ngất, cao đến ngang tầm cánh chim bay, bỗng như có một phép
thần thông nào vụt mở ra trước mắt chúng tôi cả một thế giới đẹp
đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng. Chiều rộng không
cùng của đất đai làm chúng tôi sửng sốt. Mỗi đứa chúng tôi đều
nín thở ngồi yên lặng đi trên một cành cây và quên mất cả chim
lẫn tổ chim.
Chuồng ngựa của nông
trường mà chúng tôi vẫn coi là toà nhà rộng lớn nhất trên thế
giới, ngồi đây chúng tôi thấy chỉ như một căn nhà xép bình
thường. Phía sau làng là dải thảo nguyên hoang vu mất hút trong
làn sương mờ đục. Chúng tôi cố gương hết tầm mắt nhìn vào nơi xa
thẳm biêng biếc của thảo nguyên và nom thấy không biết bao nhiêu
đất đai mà trước đây chúng tôi không biết đến, thấy những con
sông mà trước đây chúng tôi chưa từng nghe nói đến.
Những dòng sông lấp lánh
tận chân trời như những sợi chỉ bạc mỏng manh. Chúng tôi nép
mình ngồi trên các cành cây suy nghĩ: đã phải đấy là nơi tận
cùng thế giới chưa, hay phía sau vẫn còn có bầu trời ấy, những
đám mây, những đồng cỏ và sông ngòi như thế này? Chúng tôi náu
mình trên các cành cây, lắng nghe những tiếng gió ảo huyền và
tiếng lá cây đáp lại lời gió, thì thầm to nhỏ về những miền đất
bí ẩn đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thẳm biêng biếc kia.
Tôi lắng nghe tiếng hai
cây phong rì rào, tim đập rộn ràng vì thảng thốt và vui sướng,
trong tiếng xạc xào không ngớt ấy tôi cố hình dung ra những miền
xa lạ kia. Thuở ấy chỉ có một điều tôi chưa hề nghĩ đến: ai là
người đã trồng hai cây phong trên đồi này? Người vô danh ấy đã
ước mơ gì, đã nói những gì khi vùi hai gốc cây xuống đất, người
ấy đã ấp ủ những niềm hi vọng gì khi vun xới chúng nơi đây, trên
đỉnh đồi cao này?
Quả đồi có hai cây phong
ấy, không biết vì sao ở làng tôi họ gọi là “Trường Đuysen”. Tôi
còn nhớ hễ có ai lạc mất ngựa phải đi tìm và hỏi thăm: “Này, có
thấy con ngựa tía nhà mình không”. Là người ta thường hay đáp:
“Chỗ trên kia kìa, gần Trường Đuysen ấy, đêm qua ngựa vẫn còn ăn
cỏ ở đấy, lên tìm may ra thấy”. Bắt chước người lớn, bọn trẻ
chúng tôi vẫn thường lặp lại không hề suy nghĩ gì: “Các cậu ơi,
lên Trường Đuysen trèo cây phong phá tổ chim sẻ đi”.
Người ta thuật lại rằng
trước kia trên đồi này có một ngôi trường. Nhưng hồi ấy đến dấu
vết của ngôi trường chúng tôi cũng chẳng hề tìm thấy nữa. Thuở
nhỏ tôi đã mấy lần cố tìm cho được dù chỉ là những vết tích đổ
nát của ngôi trường. Tôi lang thang tìm kiếm mãi nhưng chẳng
thấy gì cả, về sau tôi bắt đầu lấy làm lạ, không hiểu sao người
ta lại gọi quả đồi trơ trụi ấy là “Trường Đuysen” và tôi đã có
lần hỏi các cụ già xem Đuysen là ai. Một người lơ đãng khoát tay
đáp: “Đuysen là ai à? Đấy cái lão bây giờ vẫn còn sống ở đây ấy
mà, trong thị tộc cừu thọt ấy.
Đã lâu lắm rồi, Đuysen bấy
giờ còn là đoàn viên Komxômôn. Thời ấy, trên đồi có một căn nhà
kho của ai bỏ hoang, Đuysen mở trường dạy trẻ ở đấy. Mà nào có
ra trường sở gì đâu, chỉ được cái tên thôi. Chao ôi, cái thời
buổi ấy cũng hay! Bấy giờ hễ ai nắm nổi bờm ngựa, biết đút chân
vào bàn đạp thì làm gì chẳng được. Đuysen cũng vậy. Nghĩ ra cái
gì là làm cho được cái ấy. Bây giờ gian nhà chứa ấy chẳng còn
lấy được một hòn đá nhỏ, được mỗi một việc còn lại cái tên…”
Tôi rất ít biết Đuysen.
Chỉ còn nhớ đó là một người đã luống tuổi, vóc cao lớn, dáng
xương xương, có đôi mày quăn rậm. Nhà ông ở bên kia sông, đường
Đội hai. Dạo tôi còn ở làng thì Đuysen trông coi hệ thống thuỷ
lợi của nông trường và suốt ngày ở ngoài đồng. Thỉnh thoảng ông
có đi qua phố tôi, trên yên ngựa buộc một chiếc cuốc lớn và con
ngựa của ông trông cũng giống chủ nó, cũng xương xẩu, vó chân
thon nhỏ. Sau Đuysen già đi và nghe nói ông đi đưa thư. Nhưng đó
là nhân thể nói vậy thôi.
Vấn đề ở chỗ khác. Theo
quan niệm của tôi lúc đó thì người thanh niên Komxômôn phải là
một chàng gighit nói hăng làm hăng hơn hết thảy mọi người trong
thôn, thường phát biểu trong hội nghị, viết báo về bọn chây lười
và bọn ăn cắp của công. Và tôi không tài nào hình dung ra được
con người hiền lành râu rậm ấy trước kia đã có lúc là Komxômôn,
mà hơn nữa, điều đáng ngạc nhiên nhất là lại dạy trẻ con học
trong khi chính mình cũng chẳng biết được bao nhiêu chữ nghĩa.
Không, những chuyện như thế tôi không tài nào hình dung nổi!
Thành thực mà nói, tôi coi đó chỉ là một trong bao nhiêu chuyện
cổ tích được truyền tụng trong làng mà thôi. Nhưng về sau mới
biết là sự thể hoàn toàn không phải như thế…
Mùa thu năm ngoái tôi nhận
được một bức điện từ làng tôi gửi đến. Bà con trong làng mời tôi
về dự buổi khánh thành ngôi trường mới do nông trường xây dựng
lấy. Tôi lập tức quyết định về làng, vì làm sao tôi có thể ngồi
nhà trong một ngày vui của quê hương như thế được. Tôi còn về
trước vài ngày nữa là khác. Tôi định bụng về sẽ dạo quanh, ngắm
cảnh và vẽ ít bức kí hoạ. Trong số những người được mời về dự
hoá ra có cả bà viện sĩ Xulaimanôvna. Tôi nghe nói bà về đây một
hai hôm rồi đi thẳng lên Matxcơva.
Tôi biết rằng người đàn bà
hiện nay đang nổi tiếng ấy đã rời làng ra tỉnh từ thuở nhỏ. Sống
ở tỉnh thành được ít lâu, tôi cũng đã có dịp làm quen với bà. Bà
đã nhiều tuổi, đẫy đà, mái tóc chải mượt bạc đi nhiều. Người đàn
bà đồng hương nổi tiếng của chúng tôi làm chủ nhiệm bộ môn ở
trường đại học tổng hợp, lên lớp giảng triết học, làm việc ở
viện hàm lâm, hay đi ra nước ngoài luôn. Bà thường bận nhiều
công việc và tôi vẫn chưa có dịp được quen biết thật gần gũi,
nhưng bất cứ lần nào gặp tôi ở đâu bà cũng đều quan tâm đến cuộc
sống tại quê hương và thế nào cũng bày tỏ ý kiến, dù là vắn tắt,
về tác phẩm của tôi. Có lần tôi đánh bạo hỏi bà:
- Antưnai Xulaimanôvna,
giá bà ghé về quê thăm bà con trong làng có lẽ hay đấy. Ở làng
ai cũng biết bà; ai cũng hãnh diện vì bà, nhưng phần nhiều mọi
người đều chỉ mới nghe danh tiếng thôi, nên có lúc họ nói rằng
bà bác học nổi danh của làng ta hình như muốn xa lánh chúng ta,
quên mất đường về Kurkurêu rồi.
- Cố nhiên phải về chứ. –
Bà Antưnai Xulaimanôvna mỉm cười buồn buồn, – chính tôi vẫn mơ
ước được về Kurkurêu từ lâu, đã bao nhiêu năm không về làng rồi.
Kể ra tôi cũng không còn họ hàng thân thích gì ở làng nữa. Nhưng
vấn đề đâu phải ở chỗ ấy. Thế nào tôi cũng về, tôi phải về; hay
nhớ quê hương quá.
Bà viện sĩ Xulaimanôvna về
đến làng khi buổi lễ trọng thể khánh thành trường học sắp khai
mạc. Các nông trang viên trông thấy bà qua kính cửa xe hơi và
mọi người đều đổ ra đường. Từ người quen cho tới người lạ, từ cụ
già cho đến trẻ con ai cũng muốn bắt tay bà. Có lẽ Antưnai
Xulaimanôvna cũng không ngờ sẽ được đón tiếp như vậy, thậm chí
còn luống cuống nữa thì phải. Bà đặt tay lên ngực, cúi chào mọi
người và khó khăn lắm mới lách được lên bục chủ tịch đoàn.
Chắc hẳn bà Antưnai
Xulaimanôvna đã từng đi dự nhiều cuộc họp long trọng và chắc ở
đâu bà cũng được đón tiếp nồng nhiệt và kính cẩn, nhưng tới đây,
trong ngôi làng bình thường này, thái độ niềm nở ân cần của dân
làng đã làm bà hết sức bồi hồi cảm động và bà luôn luôn cố giấu
những giọt nước mắt bất giác trào ra.
Sau phần nghi lễ các em
thiếu nhi thắt khăn quàng đỏ cho vị khách quý, mang tặng hoa và
mở đầu quyển sổ danh dự của trường mới lập bằng tên bà. Kế đó là
cuộc biểu diễn văn nghệ rất vui vẻ hấp dẫn của học sinh, rồi ông
hiệu trưởng mời chúng tôi, các tân khách, thầy giáo và lao động
xuất sắc của nông trường về nhà ông.
Đến đây họ vẫn chưa thể
hết mừng rỡ với cuộc về thăm của Antưnai Xulaimanôvna. Họ mời bà
ngồi vào chỗ danh dự có trải thảm và cố tìm mọi cách để nêu rõ
lòng kính trọng của họ đối với bà. Như trong tất cả những dịp
như thế, bầu không khí hết sức náo nhiệt, khách khứa chuyện trò
sôi nổi và luôn nâng cốc chúc mừng. Nhưng bỗng có anh thanh niên
người làng đi vào đưa cho chủ nhân một tập điện tín. Các bức
điện được truyền qua tay mọi người: các học sinh cũ chúc mừng bà
con trong làng nhân dịp khánh thành nhà trường mới.
- Này, những bức điện này
là do ông lão Đuysen mang về phải không? – ông hiệu trưởng nói.
- Vâng, – người thanh niên
đáp. – Ông cụ bảo suốt dọc đường quất ngựa luôn tay để về kịp
buổi lễ, cho nhân dân được nghe đọc các bức điện. Ông cụ chậm
mất một tí, đang buồn.
- Thế để ông ta đứng đấy
làm gì, ra bảo ông ấy xuống ngựa, mời vào đây!
Người thanh niên ra gọi
Đuysen. Bà Antưnai Xulaimanôvna đang ngồi cạnh tôi, không hiểu
sao bỗng giật mình và như chợt nhớ ra điều gì, bà hỏi tôi xem họ
đang nói đến Đuysen nào thế, giọng bà rất lạ.
- Đây là người đưa thư của
nông trường, bà Antưnai Xulaimanôvna ạ. Bà có biết ông cụ Đuysen
à?
Bà gật đầu qua loa, rồi
toan đứng dậy, nhưng giữa lúc ấy nghe có tiếng ai cưỡi ngựa đi
ngang qua cửa sổ và người thanh niên quay vào nói với chủ nhân:
- Akxakan ạ, tôi gọi ông
cụ vào đây nhưng ông ấy đi rồi, ông cụ còn phải đi phát nốt thư.
- Thì cứ để ông lão đi đưa
thư, giữ lại làm gì. Sau rồi ngồi với các cụ già cũng được, – có
người khó chịu thốt ra.
- Ồ! Các vị không biết
Đuysen của chúng ta đấy thôi! Ông ấy là người rất nguyên tắc.
Chưa làm xong việc thì không có rẽ vào đâu hết.
- Đúng đấy, tính ông cụ lạ
thật. Sau chiến tranh ông cụ xuất viện tại Ukraina, rồi ở lại
đấy, mới về làng được năm năm nay. Ông cụ bảo là về chết ở quê
cha đất tổ. Suốt đời cứ sống độc thân thế thôi…
- Nhưng giá ông cụ ghé vào
một tí lúc này vẫn hơn…Thôi cũng được. – Và chủ nhân khoát tay.
- Các đồng chí, nếu các
đồng chí còn nhớ thì ngày xưa chúng mình đã từng học ở trường
Đuysen. – Một trong số những người được kính nể nhất ở làng nâng
cốc nói. – Mà chính ông ta thì hẳn là chưa biết hết mặt chữ cái.
– Người phát biểu nheo mắt và lắc đầu. Tất cả dáng bộ ông ta lộ
rõ ý ngạc nhiên và chế giễu.
- Ấy đúng như thế đấy, -
mấy giọng nói hưởng ứng theo. Cử toạ cười phá lên.
- Bấy giờ thì còn phải
nói! Hồi ấy còn thiếu trò gì mà Đuysen lại không bày vẽ ra.
Chúng mình thì cứ tưởng ông là thầy giáo thật kia chứ!
Khi tiếng cười đã ngớt,
người vừa nâng cốc nói tiếp:
- Bây giờ mọi người đều đã
trưởng thành lên ngay trước mắt chúng ta. Bà viện sĩ Antưnai thì
cả nước biết tiếng. Hầu hết chúng ta đều có trình độ giáo dục
phổ thông và nhiều người có trình độ đại học. Hôm nay chúng ta
làm lễ khánh thành trường trung học mới ở làng, chỉ riêng một
điều đó thôi cũng đủ nói lên cuộc sống đã thay đổi biết chừng
nào. Vậy thì, thưa bà con, chúng ta hãy cạn chén chúc cho mai
này con cháu làng Kurkurêu sẽ trở thành những con người tiên
tiến của thời đại.
Mọi người lại ồn ào và
nhất tề hưởng ứng cốc rượu mừng, riêng bà Antưnai Xulaimanôvna
đỏ mặt, như có điều gì khiến bà gượng ngùng và chỉ nhấp môi vào
cốc rượu. Nhưng mọi người đang lúc hoan hỉ và mải mê trò chuyện
nên không để ý thấy thái độ của bà.
Antưnai Xulaimanôvna xem
đồng hồ mấy lần. Rồi đến khi khách khứa đã ra đường, tôi thấy bà
đứng riêng sang một bên con kênh đào, cách hẳn mọi người và nhìn
đăm đăm lên ngọn đồi chỗ hai cây phong sang độ thu đã ngả màu đỏ
úa đang đung đưa trước gió. Mặt trời lặng xuống vết dài màu tím
nhạt của thảo nguyên xa tắp trong buổi hoàng hôn. Từ phía ấy,
ánh nắng đang tàn lụi nhuộm một sắc đỏ tía đùng đục, buồn thảm
lên ngọn hai cây phong.
Tôi bước lại gần bà
Antưnai Xulaimanôvna.
- Bây giờ hai cây phong
đang rụng lá. Giá bà nhìn chúng vào mùa xuân, lúc đang độ đâm
chồi nẩy lộc thì thích hơn. – Tôi nói.
- Chính tôi cũng đang nghĩ
thế đấy - Antưnai Xulaimanôvna thở dài, lặng thinh một lát rồi
nói tiếp như tự nhủ mình: - mà phải, sinh vật nào cũng có mùa
xuân và mùa thu của nó.
Trên khuôn mặt tàn úa đã
có nhiều nếp nhăn nhỏ bé xung quanh mắt thoáng hiện vẻ ưu tư. Bà
đứng nhìn hai cây phong với nỗi buồn u uất mà chỉ phụ nữ mới có
được. Và tôi bỗng thấy như đứng trước mặt tôi không phải là viện
sĩ hàn lâm Xulaimanôvna nữa mà chỉ là một phụ nữ Kirghizi bình
thường, hết sức chất phác trong mọi nỗi khổ niềm vui. Người đàn
bà thông thái ấy hẳn là giờ đây đang nhớ lại tuổi xuân của mình,
cái tuổi xuân mà, như lời hát trong các bài dân ca của chúng
tôi, dẫu có đứng trên đỉnh núi cao nhất cũng không sao gọi thấu.
Hình như trong khi nhìn lên hai cây phong bà muốn nói điều gì,
nhưng rồi chắc bà nghĩ sao lại thôi và lật đật đeo cặp kính vẫn
cầm ở tay trên mắt.
- Hình như xe lửa đi
Matxcơva chạy qua đây vào mười một giờ phải không.
- Vâng, lúc mười một giờ
đêm.
- Thế thì tôi phải sửa
soạn ngay mới được.
- Sao lại đột ngột thế ạ!
Antưnai Xulaimanôvna, bà đã hứa ở lại vài ngày cơ mà? Dân làng
không để bà đi đâu.
- Không, tôi có nhiều việc
gấp phải đi ngay bây giờ.
Dù dân làng có cố vật nài
đến đâu, có tỏ vẻ giận dỗi đến thế nào, Antưnai Xulaimanôvna
cũng vẫn một mực không đổi ý.
Trong khi đó trời bắt đầu
sẩm tối. Dân làng buồn rầu đưa bà ra xe, sau khi được bà hứa
rằng lần sau sẽ về một tuần lễ, có khi lâu hơn là khác. Tôi tiễn
Antưnai Xulaimanôvna đến tận ga.
Vì sao Antưnai
Xulaimanôvna lại vội ra đi một cách đột ngột như vậy? Làm phật ý
bà con trong làng, nhất là vào một ngày như thế, tôi thấy quả
không nên. Dọc đường đã mấy lần tôi định hỏi bà về chuyện đó,
nhưng rồi lại không dám. Chẳng phải vì tôi sợ tỏ ra thiếu lịch
thiệp, mà chỉ vì tôi hiểu rằng đằng nào bà cũng sẽ chẳng nói gì
hết. Suốt dọc đường bà cứ lặng thinh, ưu tư suy nghĩ điều gì.
Tuy vậy, khi lên đến ga,
tôi cũng hỏi bà:
- Bà Antưnai Xulaimanôvna,
hình như bà có điều gì bận tâm, hay chúng tôi đã làm bà giận?
- Sao anh lại nói thế! Anh
không được nghĩ như vậy! Tôi còn có thể giận ai được chứ? Hoạ
chăng giận mình thì có. Phải, lẽ ra phải giận mình mới đúng.
Thế là bà Antưnai
Xulaimanôvna ra đi. Tôi trở lại thành phố và mấy hôm sau bỗng
nhận được thư của bà. Bà cho biết là sẽ ở lại Matxcơva lâu hơn
dự định và viết:
“Tuy có rất nhiều công
việc quan trọng và khẩn cấp, tôi cũng đã quyết định gác hết lại
và viết lá thư này cho anh… Nếu anh thấy điều gì tôi viết đây
đáng được chú ý thì tôi khẩn khoản xin anh nghĩ xem làm thế nào
cho mọi người cùng biết câu chuyện tôi sẽ kể. Tôi nghĩ không
phải chỉ riêng bà con trong làng mà nói chung mọi người, nhất là
lứa tuổi trẻ, đều cần biết câu chuyện này. Tôi đã thấy rõ như
vậy sau bao lần đắn đo cặn kẽ. Đó là lời xưng tội của tôi trước
mọi người. Tôi cần phải làm tròn bổn phận của tôi. Càng nhiều
người được biết thì lương tâm tôi càng đỡ cắn rứt. Anh đừng sợ
làm cho tôi lâm vào tình trạng khó xử. Anh đừng giấu giếm gì
hết…”
Tôi đã mang nặng trong
lòng những ấn tượng của lá thư ấy mấy ngày liền. Và tôi không
nghĩ ra được cách gì hơn là thay mặt bà Antưnai Xulaimanôvna để
kể hết chuyện này.
PHẦN 1
|
PHẦN 2 |
PHẦN 3 |
PHẦN 4 |
PHẦN KẾT